HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH
LAI CHÂU
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
150/2009/NQ-HĐND
|
Lai Châu, ngày 14
tháng 7 năm 2009
|
NGHỊ QUYẾT
THÔNG
QUA ĐỀ ÁN VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH TỈNH LAI CHÂU GIAI ĐOẠN
2009 - 2015
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU,
KHOÁ XII, KỲ HỌP THỨ 14
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân ban hành năm 2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành năm 2004;
Căn cứ Pháp lệnh Dân số ban hành năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16
tháng 9 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh Dân số;
Căn cứ Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04
tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân
số - kế hoạch hóa gia đình;
Sau khi xem xét Tờ trình số 678/TTr-UBND ngày
17 tháng 6 năm 2009 của UBND tỉnh Lai Châu về Đề án công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình tỉnh Lai Châu giai đoạn 2009-2015; Báo cáo thẩm tra của Ban Văn
hoá - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh và ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân
tỉnh Lai Châu,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Nhất
trí thông qua Đề án về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình tỉnh Lai Châu
giai đoạn 2009-2015 (có Đề án kèm theo)
Điều 2.
- Giao Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định
cụ thể và hướng dẫn, triển khai thực hiện.
- Giao Thường
trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Điều 3. Nghị
quyết này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày thông qua.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh
Lai Châu khoá XII, kỳ họp thứ 14 thông qua ngày 14 tháng 7 năm 2009./.
VỀ
CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH TỈNH LAI CHÂU GIAI ĐOẠN 2009-2015
(Kèm
theo Nghị quyết số 150/2009/NQ-HĐND ngày 14 tháng 7 năm 2009 của Hội đồng Nhân
dân tỉnh Lai Châu)
Phần thứ nhất
SỰ CẦN
THIẾT VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. SỰ CẦN THIẾT.
Dân số tác động và trực tiếp ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, mỗi vùng miền và mỗi địa phương. Công
tác dân số kế hoạch hoá gia đình (bao gồm: Quy mô dân số, cơ cấu dân số và
chất lượng dân số) là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất
nước, là yếu tố cơ bản trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người,
từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định thực hiện công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua, các cấp uỷ Đảng, chính
quyền các cấp trong tỉnh luôn quan tâm tới công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình. Vì vậy đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Đã tạo sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện
quy mô gia đình ít con, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và
từng bước nâng cao chất lượng dân số. Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện
pháp tránh thai hiện đại tăng dần. Tỷ xuất sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba năm sau
giảm so với năm trước.
Tuy vậy,
nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình còn hạn chế. Tỷ lệ sinh vẫn ở mức cao, mỗi năm Lai Châu có từ 8500 đến
9000 trẻ được sinh ra trong đó trẻ sinh ra là con thứ ba trở lên chiếm 20,3%.
Số con trung bình của mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ của toàn tỉnh là
2,8 con (gấp 1,4 lần so với trung bình toàn quốc). Điều kiện kinh tế -
xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, trình độ sản xuất thấp, chậm phát triển, tỷ
lệ hộ nghèo cao 34,04%, vì vậy tạo ra nhiều áp lực cho công tác giáo dục, chăm
sóc sức khoẻ, vui chơi, giải trí, xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và các nhu
cầu xã hội khác.
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình triển
khai thiếu đồng bộ, mặc dù đã tập trung nhiều cho công tác kế hoạch hoá gia
đình nhằm giảm mức sinh nhưng số cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện
đại chưa cao, công tác nâng cao chất lượng dân số, chăm sóc người cao tuổi và
vị thành niên chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Tỷ lệ tai biến sản khoa,
tử vong trẻ em các độ tuổi ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn cao. Tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm chậm. Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên
còn cao, nhiều người trong số đó là cán bộ đảng viên. Từ tháng 3/2003 đến
31/12/2008 có 311 đảng viên sinh con thứ ba trở lên, nhưng chỉ có 02 đảng viên
bị xử lý kỷ luật, đã gây tác động xấu tới việc tuyên truyền, vận động, thuyết
phục nhân dân thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình. Một bộ phận
cán bộ chuyên trách, cộng tác viên làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình
chưa yên tâm công tác, làm việc cầm chừng, hiệu quả công việc không cao. Một số
nơi khó khăn trong việc tìm người làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình
tại cơ sở. Hơn lúc nào hết, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình cần phải
được quan tâm đầu tư đúng mức nhằm giảm nhanh tỷ lệ sinh và tỷ lệ người sinh con
thứ ba trở lên, thực hiện gia đình ít con, duy trì ổn định quy mô dân số, nâng
cao chất lượng dân số, góp phần quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Vì vậy việc xây dựng Đề án về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình
tỉnh Lai Châu giai đoạn 2009-2015 là hết sức cần thiết.
II. CĂN CỨ XÂY DỰNG
ĐỀ ÁN.
- Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg
ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam
giai đoạn 2001-2010;
- Pháp lệnh Dân số ngày
09/01/2003 và Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số ngày 27/12/2008;
- Nghị định số 104/2003/NĐ-CP
ngày 16/09/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh Dân số;
- Luật Thi đua, khen thưởng ngày
26/11/2003;
- Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày
22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số -
kế hoạch hoá gia đình;
- Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg
ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Quyết định số 87/2006/QĐ-TTg
ngày 20/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Lai Châu thời kỳ 2006-2020;
- Quyết định số 192/2006/QĐ-TTg
ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế -
xã hội tỉnh Lai Châu đến năm 2010;
- Nghị định số 114/2006/NĐ-CP
ngày 03/10/2006 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về dân số và trẻ em;
- Quyết định số 170/2007/QĐ-TTg
ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc
gia dân số và kế hoạch hoá gia đình giai đoạn 2006-2010.
- Thông báo số 160-TB/TW ngày
04/6/2008 của Ban Bí thư Trung ương thông báo kết luận về tình hình thực hiện
chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình và một số giải pháp cấp bách;
- Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình;
- Chỉ thị số 12/2004/CT-TTg ngày 01/12/2004 của Tỉnh uỷ Lai
Châu về đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Phần thứ hai
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ
GIA ĐÌNH TỈNH LAI CHÂU
I.
TÌNH HÌNH CHUNG.
Lai Châu là tỉnh miền núi, nằm ở phía
Tây bắc của Tổ quốc, diện tích tự nhiên 9.112,32km2, gồm 06 huyện và
01 thị xã, với 98 xã, phường, thị trấn. Dân số năm 2008 là 362.053 người, mật
độ dân số 38 người/km2 với 20 dân tộc sinh sống; một số dân tộc chỉ
có ở Lai Châu (Cống, La Hủ, Si La) và có nguy cơ suy giảm giống nòi.
Toàn tỉnh có 92/98 xã, thị trấn thuộc vùng khó khăn, biên giới (trong đó có
21 xã biên giới). Giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp, không
đồng đều giữa các vùng, tập tục canh tác sản xuất còn lạc hậu, tỷ lệ hộ đói
nghèo 34,04%.
II. VỀ DÂN SỐ VÀ CÔNG
TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH.
1. Quy mô.
Tổng dân số tính đến tháng 5 năm 2009:
362.053 người, trong đó:
- Thị xã Lai Châu: 26.092 người
- Huyện Tam Đường: 46.683 người
- Huyện Phong Thổ: 65.043 người
- Huyện Sìn Hồ: 75.168 người
- Huyện Mường Tè: 48.997 người
- Huyện Than Uyên: 55.916 người.
- Huyện Tân Uyên: 45.154 người
Tỷ suất sinh thô giảm từ 29,75‰ năm 2004
xuống còn 23,3‰ năm 2008, trung bình mỗi năm giảm 1,29‰.
Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên giảm từ 30,5%
năm 2004 xuống còn 20,32% năm 2008, trung bình mỗi năm giảm 2,036%.
Tỷ lệ phát triển dân số năm 2008 là 25,1‰, tỷ
lệ tăng tự nhiên 20,23‰, tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh
thai hiện đại 63,4%.
Tuy quy mô dân số không lớn, nhưng mức giảm
tỷ lệ sinh còn thấp; tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên còn cao; tỷ lệ các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại còn thấp.
2. Cơ cấu dân số.
Theo số liệu của Cục thống kê tỉnh năm 2008,
nữ giới chiếm khoảng 49,5%, nam giới chiếm 50,5%; Tỷ số giới tính 108% (cứ
100 nữ thì có 108 nam); Dân số thành thị là 13,4%, dân số nông thôn chiếm
86,6%, số lao động trong độ tuổi chiếm 63,1%.
Sự mất cân bằng giới tính khi sinh có chiều
hướng gia tăng, số trẻ sinh ra trong quý 1/2009 tỷ lệ nam/nữ là 126 bé nam/100
bé nữ.
3. Phân bổ dân cư.
Mật độ dân số trung bình
của tỉnh nhìn chung thấp (38 người/km2) nhưng
phân bố không đều ở vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới. Một số nơi của huyện
Sìn Hồ, Mường Tè, dân cư thưa thớt, ở rải rác, rất khó khăn cho công tác quản
lý dân số và hoạt động các chương trình, dự án hỗ trợ nhằm nâng cao chất lượng
dân số.
4. Chất lượng dân số.
Chất lượng dân số từng bước được nâng lên,
thể hiện qua các chỉ số: Thu nhập trung bình hàng năm trên đầu người tăng rõ
rệt, năm 2008 đạt 344,6 USD/người/năm (5.858.200
đồng/người/năm); số trẻ trong độ tuổi nói chung và con em các
dân tộc thiểu số vùng cao nói riêng đến trường hàng năm tăng lên. Phong trào
toàn dân học tập phát triển mạnh, số năm học trung bình đạt 8 năm/người (số
năm đi học từ lớp 1 đến lớp 12 của một người); tuổi thọ trung bình 67 tuổi.
Tuy vậy, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, chất lượng giáo dục còn hạn chế, tỷ lệ
người mù chữ và tái mù chữ cao; các tác động xấu đến tuổi thọ có chiều hướng
gia tăng (ô nhiễm môi trường sống, số người nhiễm HIV/AIDS, tai nạn giao
thông...). Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2008 đạt 0,486 điểm, kém
xa chỉ số HDI chung toàn quốc và các nước trong khu vực (toàn quốc đạt 0,706
điểm). Chất lượng cuộc sống của số đông nhân dân các dân tộc trong tỉnh còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn.
5. Công tác chăm sóc sức khoẻ sinh
sản, kế hoạch hoá gia đình.
Hệ thống cơ sở y tế được đầu tư
xây dựng, cung cấp trang thiết bị y tế, thuốc thiết yếu đầy đủ, có chất lượng;
đội ngũ cán bộ y tế làm công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia
đình từ tỉnh đến cơ sở được kiện toàn, củng cố từng bước đáp ứng yêu cầu cho
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tuy vậy, số phụ nữ có thai được quản
lý, theo dõi còn thấp nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tỷ
lệ tai biến sản khoa, tử vong mẹ, tử vong trẻ em và tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em
dưới 5 tuổi vẫn còn cao. Một số trạm y tế chưa cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá
gia đình tại trạm.
Kết quả công tác dân số - kế
hoạch hoá gia đình năm 2008.
(có phụ lục 1 kèm theo).
6. Về đội ngũ tổ chức bộ máy cán bộ
làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Hệ thống tổ chức bộ máy
và cán bộ từ tỉnh đến cơ sở sớm được kiện toàn, song cơ cấu cán bộ không cân
đối, tỷ lệ người không có chuyên môn về y tế còn cao, trình độ, năng lực còn rất
hạn chế, chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cơ sở. Toàn tỉnh hiện có
96/98 xã, phường, thị trấn có cán bộ chuyên trách dân số (02 xã Pa Tần, Chăn
Nưa - huyện Sìn Hồ không có cán bộ chuyên trách, cán bộ trạm y tế tạm thời đảm
nhiệm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình). Nhiều cán bộ chuyên trách
đã qua đào tạo nhưng xin đi học hoặc làm công việc khác vì phụ cấp thấp, không
bảo đảm cuộc sống của bản thân và gia đình. Trong số cán bộ chuyên trách mới có
54 người đủ chuẩn theo quy định của Bộ Y tế trong đó có trình độ trung cấp
chuyên môn 41 người, có trình độ học vấn lớp 12 là 13 người. Do mức phụ cấp đối
với cộng tác viên dân số thấp nên đã thực hiện chủ trương lồng ghép nhiệm vụ
của cộng tác viên vào y tế bản nhưng đến nay chỉ có 787/1.191 cộng tác viên là
y tế bản. Các tổ dân phố, khu phố ở phường, thị trấn không có y tế như y tế bản
nên khó khăn trong việc tìm cộng tác viên.
III.
NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN.
1. Hạn
chế, yếu kém.
- Một số cấp uỷ đảng và
chính quyền buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý, thiếu sự đầu tư và kiểm tra. Một
số cán bộ, đảng viên không gương mẫu, còn sinh con thứ ba trở lên nhất là ở các
vùng có mức sinh cao.
- Lực lượng làm công tác
truyền thông, vận động còn nhiều hạn chế về trình độ và năng lực; một số cán bộ
chuyên trách, cộng tác viên thiếu sự nhiệt tình, gắn bó, trách nhiệm với công
việc chưa cao và hiệu quả thấp. Nội dung tuyên truyền, vận động về thực hiện
chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình còn nghèo nàn, hình thức truyền thông
chưa phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn dân cư. Công tác quản lý phương tiện
truyền thông còn nhiều yếu kém.
- Mạng lưới cung cấp các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình còn mỏng, mất cân đối
giữa các vùng, chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Tình trạng đẻ dày, đẻ
nhiều, đẻ con thứ ba trở lên còn cao.
- Tình trạng mất cân bằng
giới tính đang có chiều hướng gia tăng.
- Chất lượng dân số chưa
đồng đều giữa các vùng trong tỉnh, tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống
còn tồn tại trong một bộ phận dân cư nhất là với một số dân tộc đặc biệt khó
khăn.
2. Nguyên
nhân.
- Địa bàn rộng, chia cắt,
giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí còn thấp. Phong tục tập quán và tư
tưởng trọng nam khinh nữ còn nặng nề nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới.
- Một số cấp uỷ đảng và
chính quyền chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác dân số -
kế hoạch hoá gia đình, chưa quan tâm đúng mức, nhất là từ khi có quyết định
giải thể Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình bị xáo trộn nhiều, đa số cán bộ mới chưa qua đào tạo, tập huấn, chưa có
kinh nghiệm nhất là ở cơ sở. Một số nơi chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất,
cán bộ để đáp ứng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia
đình tại cơ sở.
- Hệ thống chính sách thiếu đồng bộ, chưa động viên khuyến
khích được mọi người tham gia thực hiện công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình. Chế độ cho cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số hiện nay thấp đã
ảnh hưởng đến sự nhiệt tình, gắn bó lâu dài với công việc và hiệu quả của
chương trình.
- Đầu tư nguồn lực cho công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Việc kiểm tra, giám sát, sơ tổng kết
chưa thường xuyên. Công tác khen thưởng, kỷ luật chưa kịp thời, chưa nghiêm và
chưa kiên quyết.
Phần
thứ ba
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ -
KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH TỈNH LAI CHÂU ĐẾN NĂM 2015
- Tập trung quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc
các quan điểm chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công
tác dân số - kế hoạch hoá gia đình; phấn đấu đạt được chỉ tiêu về ổn định quy
mô dân số, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng dân số.
- Công tác dân số - kế
hoạch hoá gia đình là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, cần được xây dựng thành chương trình, kế hoạch và thực hiện thường
xuyên, lâu dài.
- Công tác dân số - kế
hoạch hoá gia đình cần thiết có sự lãnh đạo của các cấp uỷ, sự quản lý điều
hành của chính quyền và phải có sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ
chức trong hệ thống chính trị và sự hưởng ứng của mọi tầng lớp nhân dân.
- Con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư nguồn lực cho
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình nhằm nâng cao chất lượng dân số và đem
lại lợi ích lâu dài.
- Là tỉnh có quy mô dân số
thấp, cùng với công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình cần quan tâm đến tăng
quy mô dân số cơ học một cách hợp lý tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
II.
MỤC TIÊU.
1. Mục
tiêu chung.
Thực hiện quy mô gia đình
mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh một hoặc hai con, duy trì vững chắc xu thế giảm sinh,
phấn đấu đạt mức sinh thay thế vào năm 2015, để tiến tới ổn định quy mô dân số
ở mức hợp lý; từng bước nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh
thần, bảo đảm cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân
lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá và sự phát triển nhanh, bền
vững của tỉnh.
2. Mục
tiêu cụ thể đến năm 2015.
2.1. Giảm tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên xuống còn 1,2%, để ổn định quy mô dân số.
2.2. Tỷ lệ giảm sinh trung
bình mỗi năm từ 0,6%o đến 0,9%o.
2.3. Tỷ lệ sử dụng các
biện pháp tránh thai hiện đại tăng lên 70%.
2.4. Giảm thiểu mất cân
bằng giới tính khi sinh và giảm tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống;
giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên mỗi năm 2,5 đến 3,0%
2.5. Giảm tỷ lệ chết trẻ
dưới 1 tuổi xuống còn 26%o.
2.6. Giảm tỷ lệ chết mẹ
liên quan đến thai sản còn 40/100.000 trẻ sinh ra sống.
2.7. Phấn đấu nâng chỉ số
phát triển con người (HDI) lên khoảng 0,600 - 0,650 điểm.
2.8. Tăng tuổi thọ trung
bình lên 70 tuổi.
2.9. Tăng số năm đi học
trung bình mỗi người lên 9 năm học.
2.10. Hạ tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 23% (mỗi năm giảm 1,5%)
2.11. Hạ tỷ lệ nhiễm
HIV/AIDS mỗi năm dưới 0,3%. Giảm tỷ lệ trẻ sinh ra bị khuyết tật, di truyền.
III.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
1. Tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền.
1.1. Tiếp tục nghiên cứu,
tổ chức quán triệt Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị; Chỉ
thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục
đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong các cấp uỷ Đảng, chính
quyền từ cấp tỉnh đến cơ sở, nhằm chuyển đổi nhận thức cho cán bộ, công chức
viên chức, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng. Đưa công
tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là một trong những nội dung quan trọng để
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và là những yếu tố cơ
bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã
hội.
1.2. Tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình; đồng thời nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện chính sách
dân số - kế hoạch hoá gia đình tại địa phương, đơn vị. Trên cơ sở xây dựng
chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm khắc phục những yếu kém và kiên quyết ngăn
chặn tình trạng sinh con thứ ba trở lên.
1.3. Cụ thể hoá việc thực hiện mục tiêu chính sách dân số -
kế hoạch hoá gia đình trong công tác thi đua, khen thưởng và công tác cán bộ;
coi việc thực hiện mục tiêu chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Xử lý
nghiêm những cán bộ công chức, viên chức, đảng viên vi phạm chính sách dân số -
kế hoạch hoá gia đình.
1.4. Đẩy mạnh xã hội hoá
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, huy động toàn xã hội tham gia nhằm
nâng cao tính hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, đoàn thể
trong việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tự nguyện thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
1.5. Quản lý tốt quy mô
dân số, xây dựng quy hoạch đô thị và tạo việc làm cho người dân.
2. Kiện
toàn, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ.
2.1. Kiện toàn tổ chức bộ
máy làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình từ cấp tỉnh đến cơ sở, đảm bảo
đủ năng lực và điều kiện để tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp trong
việc chỉ đạo, quản lý và triển khai thực hiện công tác dân số - kế hoạch hoá
gia đình có hiệu quả, nhất là đối với cấp cơ sở.
2.2. Chủ động, tăng cường
tập huấn, đào tạo đội ngũ cán bộ từ cấp tỉnh đến cơ sở để có đủ kiến thức, kỹ
năng, năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài.
2.3. Tăng cường sự phối
hợp giữa ngành y tế với các ban, ngành, đoàn thể, các cấp uỷ Đảng, chính quyền
các cấp trong công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, phát huy hiệu quả hoạt
động của Ban chỉ đạo công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình các cấp.
3. Đẩy
mạnh công tác truyền thông, vận động và giáo dục.
3.1. Phổ biến, tuyên
truyền rộng rãi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đến mọi tầng lớp nhân dân.
3.2. Phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan
truyền thông, thông tin đại chúng từ cấp tỉnh đến cơ sở đổi mới nội dung và
hình thức tuyên truyền, vận động. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động
toàn xã hội thực hiện mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh một hoặc hai con, nhằm làm
chuyển biến sâu sắc về nhận thức, tâm lý, tập quán sinh đẻ trong toàn xã hội.
Hoạt động tuyên truyền, vận động phù hợp với từng nhóm đối tượng, phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của từng địa phương, tập trung ở vùng
đông dân, có mức sinh cao, vùng có tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên và vùng đặc
biệt khó khăn.
3.3. Triển khai có hiệu
quả Chiến dịch tăng cường truyền thông vận động, lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ
sinh sản cho nhân dân.
3.4. Mở rộng và nâng cao
chất lượng chương trình giáo dục dân số - kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ
sinh sản trong và ngoài nhà trường, nhằm cung cấp kiến thức và tư vấn cho vị
thành niên, thanh niên hiểu biết về giới tính, vấn đề tình dục lành mạnh, an
toàn. Giúp đối tượng tiếp cận một cách dễ dàng, thuận tiện các dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, ngăn chặn tình trạng có thai ngoài ý
muốn, nạo phá thai an toàn, phòng chống lây nhiễm bệnh qua đường tình dục. Lồng
ghép giáo dục dân số, sức khoẻ sinh sản trong các môn, bài học thích hợp ở bậc
phổ thông. Đẩy mạnh truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi về chăm sóc sức
khoẻ sinh sản cho người cao tuổi cùng biết và chủ động phòng ngừa có hiệu quả.
4. Tăng
cường cung cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế
hoạch hoá gia đình.
4.1. Nâng cấp cơ sở vật
chất, trang thiết bị và đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế. Đa
dạng hoá các loại hình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch
hoá gia đình; đảm bảo cung cấp dịch vụ an toàn, thuận tiện và chất lượng tốt
cho người dân từ tuyến tỉnh đến cơ sở, đặc biệt quan tâm tăng cường cơ sở vật
chất, trang thiết bị và cán bộ chuyên môn có đủ trình độ cho các khoa sản,
ngoại sản của các bệnh viện tuyến huyện, nhất là đối với vùng cao, vùng sâu.
4.2. Củng cố mạng lưới tư vấn và cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình từ cấp tỉnh đến
cơ sở. Thành lập thêm các trung tâm tư vấn về sức khoẻ sinh sản cho lứa tuổi vị
thành niên, tuổi trẻ, người cao tuổi và các dịch vụ nâng cao chất lượng dân số (kiểm
tra sức khoẻ, tư vấn tiền hôn nhân, điều trị vô sinh, chuẩn đoán trước và sau
sinh, phát hiện các bệnh bẩm sinh ở trẻ sơ sinh, giảm thiểu tình trạng tảo hôn
và kết hôn cận huyết thống). Dự phòng và điều trị có hiệu quả các bệnh
nhiễm khuẩn đường sinh sản, lây truyền qua đường tình dục. Phát hiện, điều trị
sớm các bệnh ung thư đường sinh sản, đặc biệt là phụ nữ 45 tuổi trở lên. Cung
cấp các phương tiện tránh thai thích hợp nhằm phòng tránh thai ngoài ý muốn,
các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và các bệnh nhiễm khuẩn sinh
sản khác.
4.3. Thực hiện các đợt chiến dịch
tuyên truyền vận động, lồng ghép với cung cấp dịch vụ sức khoẻ sinh sản, kế
hoạch hoá gia đình đối với vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng có mức sinh
cao đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả.
5. Thực hiện các chế
độ, chính sách về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
5.1. Chế độ thưởng.
5.1.1. Đối với Tập
thể:
- Đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị sự
nghiệp thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được coi là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và làm
căn cứ để xét thi đua, khen thưởng (chế độ thưởng thực hiện theo Luật thi
đua, khen thưởng)
- Đối với các xã, phường, thị trấn (gọi
chung là cấp xã): Trong 3 năm liên tục không có người vi phạm chính sách
dân số - kế hoạch hoá gia đình, ngoài định mức khuyến khích bằng nguồn kinh phí
của Trung ương, UBND tỉnh bổ sung kinh phí bằng nguồn ngân sách địa phương
thưởng 2.000.000 đồng/xã.
- Đối với tập thể bản, tổ dân phố, khu
phố (gọi chung là bản): Trong 3 năm liên tục không có người vi phạm
chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, ngoài định mức khuyến khích bằng
nguồn kinh phí của Trung ương, UBND tỉnh bổ sung kinh phí bằng nguồn ngân sách
địa phương thưởng 1.000.000 đồng/bản.
5.1.2. Đối với cá
nhân:
- Chế độ thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động, cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên lực lượng vũ
trang, thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được coi là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và làm
căn cứ để xét thi đua, khen thưởng (chế độ thưởng thực hiện theo Luật thi
đua, khen thưởng)
- Đối với cá nhân tự nguyện đình sản
ngoài định mức khuyến khích bằng nguồn kinh phí của Trung ương, UBND tỉnh bổ
sung kinh phí bằng nguồn ngân sách địa phương thưởng 300.000 đồng/1 trường hợp
- Đối với người có công vận động đối
tượng thực hiện đình sản, đặt vòng, ngoài định mức khuyến khích bằng nguồn kinh
phí của Trung ương, UBND tỉnh bổ sung kinh phí bằng nguồn ngân sách địa phương
thưởng 50.000 đồng/1 ca đình sản và 10.000 đồng/1 ca đặt vòng.
5.2. Chính sách
đối với cán bộ dân số xã, phường thị trấn (gọi chung là xã) và cộng tác
viên làm công tác dân số bản, tổ dân phố, khu phố (gọi chung là bản)
- Chính sách chế
độ đối với cán bộ dân số xã chưa đủ chuẩn để được xếp ngạch viên chức trạm y tế
xã, ngoài định mức của Trung ương 200.000 đồng/người/tháng, ngân sách của tỉnh
hỗ trợ thêm để đạt 0,5 mức lương tối thiểu/người/tháng.
- Chính sách chế độ đối với cộng tác
viên làm công tác dân số bản, ngoài định mức của Trung ương là 50.000
đồng/người/tháng, ngân sách của tỉnh hỗ trợ thêm để đạt 0,2 mức lương tối
thiểu/người/tháng.
5.3. Xử lý vi
phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Xử lý nghiêm các
tập thể, cá nhân vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình theo quy
định của pháp luật hiện hành nhất là đối với cán bộ, đảng viên, công nhân, viên
chức. Ngoài hình thức kỷ luật theo quy định chung của Đảng (đối với đảng
viên); theo quy định của Chính phủ (đối với cán bộ công chức, viên chức)
và hương ước, quy ước của bản, tổ dân phố, khu phố (đối với nhân dân);
các đơn vị, cá nhân vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình sẽ bị xử
lý, cụ thể:
- Không xét đề bạt và xét các danh hiệu thi đua trong 5 năm
đối với cán bộ, công chức, viên chức.
- Không xét các danh hiệu
thi đua trong 3 năm đối với cơ quan, đơn vị trực tiếp có người vi phạm chính
sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.
- Không xét công nhận tập
thể, đơn vị văn hoá, bản, khu phố văn hoá, gia đình văn hoá trong 3 năm.
- Kéo dài thời gian nâng
bậc lương 01 năm đối với cán bộ công chức sinh con thứ ba trở lên.
6. Triển
khai thực hiện các đề án, mô hình ưu tiên.
Tiếp tục quản lý, tổ chức
thực hiện có hiệu quả các đề án đã được phê duyệt và các đề án khác liên quan
đến chất lượng dân số.
Khảo sát, xây dựng kế
hoạch thực hiện điểm mô hình can thiệp làm giảm tình trạng tảo hôn, kết hôn cận
huyết thống ở vùng dân tộc có tỷ lệ tảo hôn và kết hôn cận huyết thống cao.
7. Đầu tư
nguồn lực tài chính đối với công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
7.1. Vốn đầu tư.
Tổng nguồn đầu tư giai
đoạn 2009 - 2015 là 68.631 triệu đồng, đầu tư cho Truyền thông giáo dục, chuyển
đổi hành vi; nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình; đảm bảo hậu cần
và đẩy mạnh tiếp thị phương tiện tránh thai; nâng cao năng lực quản lý, điều
hành và tổ chức thực hiện; nâng cao chất lượng thông tin quản lý chuyên ngành
dân số; mở rộng mô hình giải pháp can thiệp nâng cao chất lượng dân số; mô hình
can thiệp làm giảm tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống; xây dựng và trang
bị nâng cấp cơ sở vật chất.
7.2. Nguồn vốn đầu tư giai
đoạn 2009 - 2015.
Tổng nguồn vốn: 68.631
triệu đồng, trong đó:
- Vốn Chương trình mục
tiêu Quốc gia: 48.326 triệu đồng
- Vốn ngân sách địa
phương: 20.305 triệu đồng
- Các nguồn vốn khác: Không
(Có phụ lục 2 kèm
theo)
IV.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Đề án về công tác Dân số -
kế hoạch hoá gia đình tỉnh Lai Châu giai đoạn 2009 - 2015 cần được đưa vào
chương trình phát triển kinh tế - xã hội và phải được cụ thể hoá bằng chương
trình, kế hoạch của từng ngành, từng địa phương.
1. Uỷ ban Nhân dân tỉnh tổ
chức quán triệt và chỉ đạo Ban chỉ đạo công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình
tỉnh triển khai thực hiện Đề án về công tác Dân số - kế hoạch hoá gia đình tỉnh
Lai Châu giai đoạn 2009 - 2015.
2. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
tỉnh và các tổ chức thành viên xây dựng chương trình phối hợp, chỉ đạo cấp dưới
triển khai tuyên truyền, vận động các đoàn viên, hội viên và tầng lớp nhân dân
thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình. Giám sát việc triển
khai thực hiện các chính sách về dân số và kế hoạch hoá gia đình để kịp thời
tham gia, đề xuất ý kiến với cấp uỷ, chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước về
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình và đảm bảo cho triển khai chương trình,
dự án có hiệu quả.
3. Các sở, ngành liên quan
căn cứ chức năng nhiệm vụ tham mưu UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Đề án.
Giao cho Sở Y tế là cơ quan thường trực, chủ trì phối kết hợp giữa các sở, ban,
ngành, đoàn thể cấp tỉnh và UBND các huyện, thị thực hiện Đề án, định kỳ báo
cáo quá trình thực hiện Đề án theo yêu cầu và theo quy định./.
PHỤ
LỤC 1
KẾT
QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH TỈNH LAI CHÂU NĂM 2008
STT
|
Nội dung hoạt động
|
Đơn vị tính
|
Kết quả năm 2008
|
1
|
Tỷ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các biện
pháp tránh thai
|
%
|
63,46
|
2
|
Tỷ lệ giảm sinh
|
‰
|
1,1
|
3
|
Tỷ lệ phụ nữ có thai được khám thai đủ ba
lần
|
%
|
55,50
|
4
|
Tỷ lệ phụ nữ có thai quản lý được
|
%
|
85
|
5
|
Tỷ lệ trẻ sinh dưới 2500gam
|
%
|
2,73
|
6
|
Tỷ suất chết mẹ/100.000 trẻ đẻ ra sống
|
‰
|
58,50
|
7
|
Tỷ suất chết trẻ em < 1 tuổi
|
‰
|
40,17
|
8
|
Tỷ suất chết trẻ em < 5 tuổi
|
‰
|
62,00
|
9
|
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em < 5 tuổi
|
%
|
30,34
|
10
|
Số trạm y tế có khả năng thực hiện dịch vụ
KHHGĐ tại chỗ
|
Trạm
|
35
|