Nghị quyết 108/NQ-CP về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương

Số hiệu 108/NQ-CP
Ngày ban hành 10/07/2024
Ngày có hiệu lực 10/07/2024
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Phạm Minh Chính
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 108/NQ-CP

Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2024

 

NGHỊ QUYẾT

PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 6 NĂM 2024 VÀ HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN CHÍNH PHỦ VỚI ĐỊA PHƯƠNG

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở thảo luận của các Thành viên Chính phủ, ý kiến các đại biểu dự họp và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương, tổ chức vào ngày 06 tháng 7 năm 2024.

QUYẾT NGHỊ:

I. Về tình hình kinh tế - xã hội tháng 6, quý II và 6 tháng đầu năm 2024; phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm tháng 7, quý III và 6 tháng cuối năm 2024

Chính phủ thống nhất đánh giá: Từ đầu năm đến nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới phục hồi chưa vững chắc, còn nhiều rủi ro; tỷ giá đô la Mỹ, giá vàng tăng mạnh; giá dầu thô, hàng hóa cơ bản, dịch vụ vận tải biến động mạnh. Thiên tai, bão lũ, hạn hán, biến đổi khí hậu diễn biến bất thường, gây hậu quả nặng nề. Ở trong nước, nền kinh tế tiếp tục chịu "tác động kép" từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm; trong khi nước ta là nước đang phát triển, kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn, năng lực cạnh tranh và sức chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài còn hạn chế.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự vào cuộc tích cực, đồng hành của Quốc hội, các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự chung sức, đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương bám sát các Nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quán triệt chủ đề hành động của năm 2024 là "Kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững"; nắm chắc tình hình thực tiễn, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực. Nhờ đó, tình hình KTXH nước ta tháng 6, quý II và 6 tháng năm 2024 thể hiện rõ sự phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; đạt nhiều kết quả quan trọng, tốt hơn cùng kỳ năm 2023 trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nền tảng để phấn đấu hoàn thành và vượt các mục tiêu phát triển KTXH của cả năm 2024.

Tăng trưởng GDP quý II phục hồi mạnh, tăng 6,93% so với cùng kỳ, tính chung 6 tháng tăng 6,42%, cao hơn nhiều cùng kỳ năm 2023 (tăng 3,84%), vượt cận trên kịch bản đề ra; trong đó một số địa phương đạt tốc độ tăng trưởng hai con số như: Bắc Giang (14,14%), Khánh Hòa (12,73%), Thanh Hóa (11,5%), Hà Nam (10,35%), Hải Phòng (10,32%), Trà Vinh (10,27%), Hải Dương (10%).

Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 06 tháng tăng 4,08%, lạm phát cơ bản tăng 2,75%. Thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 6%; an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước 6 tháng đạt 60% dự toán, tăng 15,7% so với cùng kỳ trong khi ban hành nhiều giải pháp chính sách tài khóa, miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp với quy mô khoảng 160,5 nghìn tỷ đồng; nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát tốt trong chỉ tiêu Quốc hội giao.

Vốn đầu tư toàn xã hội quý II tăng 7,5% so với cùng kỳ, tính chung 06 tháng tăng 6,8%. Giải ngân vốn đầu tư công ước đạt 29,39% kế hoạch được giao. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký 6 tháng đạt gần 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ; vốn FDI thực hiện đạt khoảng 10,8 tỷ USD, tăng 8,2%. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 6 tháng tăng 15,7%; xuất siêu 11,63 tỷ USD. Các vấn đề tồn đọng, vướng mắc tiếp tục được tập trung tháo gỡ; công tác quản lý thị trường vàng, xăng dầu, điện... chuyển biến tích cực.

Các ngành, lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế đều tăng trưởng tốt. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng tăng 7,54% so với cùng kỳ, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 8,67%. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 6 đạt 54,7 điểm, cao nhất từ năm 2020 đến nay. Nông nghiệp phát triển ổn định, tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 06 tháng tăng 8,6% so với cùng kỳ. Du lịch phục hồi mạnh; 6 tháng đạt 8,8 triệu lượt khách, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019 trước khi xảy ra đại dịch Covid-19. Phát triển doanh nghiệp xu hướng tích cực; tính chung 06 tháng, có gần 120 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Công tác an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện; tỷ lệ hộ dân đánh giá có thu nhập không thay đổi và tăng lên trong tháng 6 đạt 95,6%, tăng 1,1% so với cùng kỳ. Thực hiện các chính sách ưu đãi người có công, giảm nghèo, bảo trợ xã hội với tổng giá trị khoảng 31 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho người dân gần 21,3 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt. Các chương trình tín dụng chính sách trong 6 tháng đã hỗ trợ vay vốn cho 1,4 triệu đối tượng, tạo việc làm cho khoảng 406 nghìn lao động. Cả nước có 6.370 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 78%; 22 tỉnh, thành phố có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đã tích lũy khoảng 700 nghìn tỷ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước để sử dụng cho tăng lương cơ sở, lương hưu, trợ cấp từ ngày 01 tháng 7 năm 2024 với lộ trình phù hợp.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng. Tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, có ý nghĩa nhân kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 49 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, phòng, chống dịch bệnh được chú trọng; tiếp tục tháo gỡ vướng mắc trong mua sắm, đấu thầu thuốc, vật tư y tế, bảo đảm vắc xin cho Chương trình tiêm chủng mở rộng. Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018; tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2024.

Chính phủ, các bộ, cơ quan, địa phương đã chuẩn bị chu đáo, bảo đảm tiến độ, chất lượng các báo cáo, đề án phục vụ Hội nghị Trung ương 9, Kỳ họp bất thường lần thứ 5 và Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV; khẩn trương xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động, cụ thể hóa các Nghị quyết, Kết luận, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, chuyển đổi số quốc gia, Đề án 06 được thúc đẩy mạnh mẽ. Đã trình Quốc hội cho phép áp dụng các Luật: Đất đai, Nhà ở, Kinh doanh bất động sảnCác tổ chức tín dụng có hiệu lực sớm hơn, từ ngày 01 tháng 8 năm 2024.

Tình hình chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chú trọng. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai chủ động, hiệu quả; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên. Thông tin, truyền thông được đẩy mạnh, nhất là truyền thông chính sách; tích cực đấu tranh phản bác, ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.

Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, nước ta còn những hạn chế, bất cập và tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Áp lực đối với công tác chỉ đạo, điều hành ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát còn cao, nhất là do các tác động, ảnh hưởng bất lợi từ bên ngoài. Thể chế để giải phóng nguồn lực xã hội còn nhiều vướng mắc. Thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tỷ lệ giải ngân đầu tư công của một số bộ, ngành, địa phương còn thấp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một số lĩnh vực còn khó khăn. Thiên tai, hạn hán, sạt lở, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn rườm rà, chậm được sửa đổi. Đời sống của một bộ phận Nhân dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo. Tình hình an ninh trật tự ở một số địa bàn, lĩnh vực còn gặp thách thức, tiềm ẩn nguy cơ. Kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc, có nơi còn chưa nghiêm; thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách vẫn là khâu yếu. Công tác phối hợp giữa các bộ, cơ quan, địa phương trong một số trường hợp còn chậm, chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Tình trạng né tránh, đùn đẩy công việc còn xảy ra tại một số cơ quan, đơn vị và trong một bộ phận cán bộ, công chức…

Qua thực tiễn chỉ đạo, điều hành đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó: (1) Phải quán triệt nghiêm, triển khai quyết liệt, kịp thời, hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. (2) Các bộ, cơ quan, địa phương phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, chủ động nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, bảo đảm hài hòa giữa xử lý tình huống trong ngắn hạn và phát triển bền vững trong trung, dài hạn. Tổ chức thực hiện với tinh thần quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó. (3) Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; phân công rõ người, rõ việc, rõ tiến độ, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ kết quả và diễn đạt phải dễ nghe, dễ hiểu, dễ làm, dễ giám sát, dễ kiểm tra, dễ đánh giá; phê bình, khen thưởng kịp thời, bình đẳng, công khai, minh bạch. (4) Tập trung tháo gỡ vướng mắc, rà soát, hoàn thiện thể chế với phương châm thể chế là nguồn lực, là động lực cho sự phát triển. (5) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhất là người đứng đầu gắn với công tác bảo vệ cán bộ; kiên quyết khắc phục tình trạng sợ sai, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong thực thi công vụ. (6) Làm tốt công tác thông tin, truyền thông, nhất là truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội, truyền cảm hứng, tạo động lực và khí thế mới cho phát triển.

Thời gian tới, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, tình hình thế giới dự báo tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, rủi ro gia tăng. Ở trong nước, khó khăn, thách thức tiếp tục nhiều hơn thời cơ, thuận lợi. Trước tình hình đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục tập trung triển khai quyết liệt, kịp thời, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực theo Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, nhất là Nghị quyết số 01/NQ-CP, 02/NQ-CP, 93/NQ-CP và các Nghị quyết Phiên họp của Chính phủ, các chỉ đạo thường xuyên của Thủ tướng Chính phủ; nỗ lực phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm ở mức cận trên từ 6,5 - 7%, lạm phát dưới 4,5% và thực hiện thành công toàn diện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển KTXH của năm 2024, tạo nền tảng thuận lợi và giữ đà, giữ nhịp phát triển cho năm 2025; trong đó, chú trọng thực hiện hiệu quả các nội dung trọng tâm sau:

1. Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế

a) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương:

(1) Điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả chính sách tiền tệ, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách vĩ mô khác; bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; hướng tín dụng vào sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; tiết kiệm chi phí, hạ lãi suất cho vay. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng, nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Điều hành tỷ giá, mặt bằng lãi suất phù hợp; tiếp tục thực hiện các giải pháp bảo đảm ổn định thị trường ngoại tệ, thị trường vàng.

(2) Thúc đẩy triển khai mạnh mẽ các chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, 30 nghìn tỷ đồng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản; tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp để Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai các chương trình tín dụng chính sách nhà nước.

(3) Tăng cường và nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng; đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu phát sinh, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.

b) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương:

(1) Siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước; đẩy mạnh chuyển đổi số, hiện đại hóa công tác thu thuế, thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử, khởi tạo từ máy tính tiền; bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, mở rộng cơ sở thu và chống thất thu thuế, nhất là từ thương mại điện tử, các dịch vụ ăn uống, kinh doanh trên nền tảng số, nhà cung cấp nước ngoài… Điều hành chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả; triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp bách. Triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất… Kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước, giữ bội chi ngân sách nhà nước và nợ công trong phạm vi giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội.

[...]