HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 04/2007/NQ-HĐND
|
Hải Phòng, ngày
18 tháng 7 năm 2007
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẤP BÁCH VÀ CƠ BẢN NHẰM GIẢM THIỂU TAI NẠN GIAO THÔNG, CHỐNG
ÙN TẮC GIAO THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
KHÓA XIII KỲ HỌP THỨ 9
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân năm 2003; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân năm 2005; Luật Giao thông đường bộ, Luật Đường sắt, Luật
Giao thông đường thủy nội địa;
Căn cứ Nghị quyết số 13/2002/NQ-CP ngày
19/11/2002 của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng tiến tới giảm dần
tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông; Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày
29/6/2007 của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao
thông và ùn tắc giao thông;
Sau khi xem xét Tờ trình số 21/TTr-UB và Đề án
số 3778/ĐA-UBND ngày 04/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố về một số biện
pháp cấp bách và cơ bản nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông, chống ùn tắc giao
thông trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Báo cáo thẩm tra của Ban Pháp chế, Hội
đồng nhân dân thành phố thảo luận,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Tán thành cơ bản Đề án của Ủy ban nhân dân thành phố về một
số biện pháp cấp bách và cơ bản nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông, chống ùn
tắc giao thông trên địa bàn thành phố; đồng thời nhấn mạnh những mục tiêu và một
số nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu sau:
1. Mục tiêu
Tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác đảm
bảo trật tự an toàn giao thông, nhằm giảm tai nạn giao thông, giảm thiệt hại về
người và tài sản trong tai nạn giao thông, chống ùn tắc giao thông và vi phạm
pháp luật giao thông trên địa bàn thành phố.
Nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành,
các địa phương và nhân dân về ý thức chấp hành pháp luật về giao thông, tự giác
chấp hành các quy định về an toàn giao thông ở mọi lúc, mọi nơi, lập lại trật tự,
kỷ cương trong hoạt động giao thông vận tải và bảo vệ các công trình giao
thông, chống mọi hành vi lấn chiếm hành lang an toàn giao thông.
Nâng cao hiệu quả đầu tư, xây dựng cải tạo nâng cấp
hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật toàn bộ hệ thống giao thông trên địa bàn
thành phố, đặc biệt là đường bộ, đường sắt, đường thủy để đảm bảo giao thông
thông suốt, an toàn.
2. Một số nhiệm vụ, biện pháp
chủ yếu.
a) Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật về giao thông
- Tăng cường các biện pháp tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật về giao thông trên các phương tiện thông tin đại chúng ở
thành phố và các hình thức khác, phải có chương trình thường xuyên phổ biến các
quy định của pháp luật an toàn giao thông. Phát động phong trào toàn dân tham
gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông, vận động từng gia đình cán bộ, công
chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị
lực lượng vũ trang và mọi người cam kết về việc thực hiện nghiêm pháp luật giao
thông. Thủ trưởng các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp
có trách nhiệm giáo dục cán bộ công chức, nhân viên của mình gương mẫu chấp
hành pháp luật giao thông. Triển khai chương trình giáo dục về trật tự an toàn
giao thông trong nhà trường ở tất cả các cấp học theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
- Tuyên truyền triển khai việc đội mũ bảo hiểm trên
các tuyến đường từ ngày 01/9/2007, cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến
sĩ trong lực lượng vũ trang gương mẫu thực hiện; tiến tới thực hiện đội mũ bảo hiểm
và thực hiện triệt để, hiệu quả các quy định xử lý vi phạm theo lộ trình đã quy
định tại Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ.
- Tổ chức việc thông báo đến các cơ quan, đơn vị,
trường học, tổ chức đối với những người vi phạm pháp luật về trật tự an toàn
giao thông để kiểm điểm giáo dục.
- Các đoàn thể, các tổ chức xã hội, nhất là Thành
đoàn, Hội Liên hiệp thanh niên thành phố cần chủ động, tích cực tham gia giữ
gìn trật tự an toàn giao thông bằng các chương trình, kế hoạch thực hiện cụ
thể. Thành phố xem xét bảo đảm các điều kiện cơ bản để thực hiện các chương
trình có tính khả thi và hiệu quả cao.
b) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng
kỹ thuật giao thông
- Tập trung hoàn thiện các quy hoạch tổng thể và
chi tiết hệ thống giao thông, quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ và đường
thủy nội địa của thành phố theo hướng văn minh, hiện đại (chú trọng hệ thống
giao thông nông thôn) gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thành phố
đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Phối hợp với Bộ Giao thông
vận tải để hoàn thành quy hoạch điều chỉnh hệ thống mạng lưới đường sắt đến năm
2010, định hướng đến năm 2020.
- Đầu tư xây dựng các công trình giao thông và kết
cấu hạ tầng giao thông, nhất là các cầu, đường, nút giao thông trọng điểm theo
Nghị quyết về kinh tế- xã hội của HĐND thành phố năm 2007. Đồng thời nghiên cứu
xây dựng hệ thống cầu vượt qua các điểm giao cắt với đường sắt trong nội thành,
nâng cấp mở rộng tuyến đường trục của các huyện, xã... Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Nghị quyết số 06/NQ-HĐND12 khóa XII về lập lại trật tự an toàn giao thông vệ
sinh môi trường và nếp sống văn minh đô thị; phối hợp chặt chẽ công tác bảo đảm
an toàn giao thông với công tác bảo đảm trật tự đường hè, vệ sinh đô thị và tuyến
đường kiểu mẫu.
- Rà soát bổ sung hệ thống cọc mốc chỉ giới, giải
toả, chống lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt, đường bộ và đường
thủy nội địa. Hoàn thành Dự án đèn tín hiệu giao thông bằng nguồn vốn vay ODA
trong năm 2007. Làm thí điểm việc lắp đặt hệ thống theo dõi giao thông tại các
cửa ô ra vào thành phố và một số trục đường giao thông chính. Tiếp tục thực
hiện dự án lắp đặt Camera tại 20 nút giao thông. Phấn đấu 100% các đường giao
thông nông thôn có đầy đủ các biển báo hiệu giao thông. Xây dựng barie tại nút
giao đường sắt, xóa bỏ và ngăn chặn kịp thời việc mở đường ngang trái phép qua
đường quốc lộ và đường sắt trong năm 2009. Thực hiện báo hiệu giao thông tại
các điểm giao cắt đường bộ với đường sắt, giải toả việc lấn chiếm hành lang an
toàn giao thông (cả đường sắt, bộ, đường thủy). Xóa bỏ 50% số đường đấu nối
trái phép vào đường quốc lộ trước ngày 31/12/2008, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn
vào những năm tới. Xử lý triệt để các điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông cao trên
địa bàn thành phố trước ngày 31/12/2007; hoàn chỉnh hệ thống giảm tốc độ theo
quy định của Cục Đường bộ Việt Nam đối với các đường giao cắt với đường quốc
lộ, tỉnh lộ. Hoàn thành và đưa vào sử dụng khu tạm giữ phương tiện thủy nội địa
vi phạm.
- Tổ chức rà soát và tổ chức phân luồng giao thông
đô thị hợp lý; có cơ chế khuyến khích huy động các nguồn lực đầu tư phát triển
các tuyến xe buýt nhằm giảm bớt phương tiện của cá nhân tham gia giao thông.
Lập dự án sử dụng xe buýt để đưa, đón các cháu học sinh đến trường học.
- Tăng cường và nâng cao chất lượng kiểm định kỹ
thuật các phương tiện tham gia giao thông, công tác cứu hộ, cứu nạn trên các
tuyến giao thông trọng điểm; chấn chỉnh, nâng cao chất lượng công tác quản lý,
đào tạo và sát hạch cấp giấy phép lái xe cho người điều khiển phương tiện giao
thông. Có biện pháp kiểm tra, thu hồi giấy phép lái xe đối với những người
nghiện ma túy.
- Các ngành chức năng quản lý Nhà nước về giao
thông phải xem xét, trả lời những ý kiến, kiến nghị của công dân về an toàn
giao thông trong vòng 15 ngày.
c) Về biện pháp xử lý vi phạm, bảo đảm thực hiện.
- Tăng cường các lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông trên địa bàn thành phố; áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để kiểm soát
và xử lý vi phạm các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy,
giải quyết tình trạng mất trật tự tại các bến xe, tình trạng lấn chiếm vỉa hè
và hành lang an toàn giao thông, hoạt động của các bến khách ngang sông, phương
tiện chở khách và các cảng thủy nội địa trên địa bàn thành phố; giải quyết triệt
để tình trạng các chợ cóc, chợ tạm đang làm ảnh hưởng đến an toàn giao thông.
- Hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông và
ùn tắc giao thông; kiên quyết thu hồi giấy phép lái xe đối với những lái xe gây
tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; đình chỉ lưu hành ô tô hết niên hạn
sử dụng, xe công nông, xe tự chế 3, 4 bánh, các phương tiện thủy nội địa không đăng
ký, không đăng kiểm theo quy định.
- Đình chỉ hoạt động các cơ sở lắp ráp, tự chế các
loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường thủy nội địa trái phép. Đầu
tư thiết bị kiểm tra và xử lý người tham gia giao thông có nồng độ cồn trong
máu cao hơn quy định. Thực hiện tạm giữ xe 90 ngày đối với trường hợp người
điều khiển xe mô tô, xe gắn máy chưa đủ tuổi hoặc không có giấy phép lái xe và
30 ngày trở lên đối với người điều khiển vi phạm một trong các hành vi sau: Chở
quá số người cho phép, đi vào đường ngược chiều, đường cấm, lạng lách đánh võng,
vượt đèn đỏ, không chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát giao thông.
- Chấn chỉnh và tổ chức quản lý tốt hoạt động của
các tuyến xe buýt hiện có và phát triển mạng lưới vận tải hành khách công cộng
bằng xe buýt; cấm hoạt động của xe xích lô đạp trên các đường phố chính vào các
giờ cao điểm; rà soát và điều chỉnh phân luồng giao thông nội thành cho phù
hợp. Kiện toàn Ban chỉ đạo an toàn giao thông thành phố và các địa phương.
d) Hàng năm thành phố dành 100% kinh phí xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông, tăng ngân sách đầu tư và huy
động mọi nguồn lực cho công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông để đạt được
mục tiêu giảm thiểu tai nạn và chống ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Giao Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo các cấp,
các ngành tổ chức triển khai thực hiện bằng các chương trình, kế hoạch cụ thể
để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
2. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các tổ chức thành viên tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện Nghị
quyết sâu rộng trong đoàn viên, hội viên.
3. Giao Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban, đại
biểu Hội đồng nhân dân thành phố đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân thành phố
khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 18/7/2007.
|
CHỦ TỊCH HĐND
THÀNH PHỐ
Nguyễn Văn Thuận
|
ĐỀ ÁN
VỀ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẤP BÁCH NHẰM GIẢM THIỂU TAI NẠN GIAO THÔNG, CHỐNG ÙN TẮC GIAO
THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hải Phòng là cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc, đô thị loại I cấp quốc gia, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội, thành phố luôn chú trọng đến việc phát triển hệ thống giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển và đường không; gần đây
đường bay Hải Phòng - Ma Cao được khai thông đã góp phần hoàn thiện hệ thống
giao thông của thành phố. Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, chống ùn
tắc giao thông là nhiệm vụ cấp thiết đảm bảo sự phát triển bền vững của thành
phố.
Trong thời gian qua, tình hình trật tự an toàn giao
thông trên địa bàn thành phố vẫn diễn biến rất phức tạp, số vụ tai nạn giao
thông, nhất là giao thông đường bộ có xu hướng gia tăng. Năm 2006 đã xảy ra 177
vụ tai nạn giao thông làm chết 181 người, bị thương 115 người. So với năm 2005
tăng 8 vụ (+ 4,7%) tăng 13 người chết (+ 7,7%), tăng 32 người bị thương (+
38,6%) gây tổn thất lớn về người và tài sản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trên, trong đó nguyên nhân chủ yếu do nhận thức của một bộ phận nhân dân
trong việc tham gia giao thông còn yếu kém, vai trò quản lý nhà nước về công
tác trật tự an toàn giao thông của một số cấp ủy đảng, chính quyền còn hạn chế;
cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật giao thông đô thị chậm phát triển so với tốc
độ phát triển của số lượng phương tiện giao thông.
Để khắc phục tình trạng trên, Ủy ban nhân dân thành
phố xây dựng Đề án Một số biện pháp cấp bách nhằm giảm thiểu tai nạn giao
thông, chống ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố trình Hội đồng nhân dân
thành phố ra Nghị quyết về vấn đề này, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực
hiện mục tiêu đẩy lùi tai nạn giao thông và chống ùn tắc giao thông trên địa
bàn thành phố.
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG CƠ SỞ HẠ TẦNG
GIAO THÔNG VÀ CÔNG TÁC ĐẢM BẢO TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
I. THỰC TRẠNG CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO
THÔNG
1. Quốc lộ:
Tổng chiều dài 101 km, trong đó Quốc lộ 10 có 52km,
Quốc lộ 5 có 29km mặt đường thảm asphalt; Quốc lộ 37 có 20km mặt đường đá nhựa;
có 27 cầu các loại. Trong đó Trung ương trực tiếp quản lý 67km đường Quốc lộ và
13 cầu, số còn lại do địa phương quản lý.
2. Tỉnh lộ:
Tổng chiều dài 177,4 km trong đó có 110 km mặt
đường thảm asphalt (62%); 67,4km mặt đường đá nhựa, 26 cầu các loại do thành
phố quản lý.
3. Đường đô thị:
Tổng chiều dài 171,4 km đường phố; 64,0 km ngõ phố;
7 cầu do thành phố quản lý và hàng trăm km ngõ, ngách trong các khu dân cư do
các quận, huyện, thị xã quản lý.
4. Đường huyện và đường giao
thông nông thôn:
Có hơn 500 km đường huyện, hơn 2.000km đường xã và
đường liên thôn, gần 500 cầu khẩu độ 3m - 25m do các địa phương quản lý.
5. Hệ thống bến xe:
Thành phố có 04 bến xe khách liên tỉnh: Niệm Nghĩa, Cầu Rào, Lạc Long, Tam Bạc
và trên 70 tuyến vận tải hành khách liên tỉnh. Một số huyện có bến xe nhưng quy
mô còn nhỏ.
6. Hệ thống giao thông đường
sắt:
Trên địa bàn thành phố có gần 30 km đường sắt chạy
qua 5 xã và gần 20 phường. Có 176 điểm giao cắt đường bộ với đường sắt, 15 điểm
có barie và trong nội thành có 6 điểm giao cắt chính chưa có barie.
7. Hệ thống giao thông đường
thủy nội địa:
Gồm 19 tuyến sông với chiều dài 414,3km. Trung ương
quản lý 11 tuyến sông có tổng chiều dài 216,8km; thành phố quản lý 8 tuyến sông
có tổng chiều dài 197,5 km. Có 7 bến phà, 3 cầu phao, 8 bến tàu khách, 56 bến
đò khách ngang sông và 96 bến cảng thủy nội địa.
8. Hệ thống giao thông đường
biển và đường hàng không:
Sân bay Cát Bi năm 2006 có 1.030 lượt máy bay hạ,
cất cánh, chuyên chở 112.500 lượt người và 1.300 tấn hàng hóa. Hiện nay việc
đưa đón hành khách, hàng hóa ra vào sân bay không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
vận tải đường bộ.
Năm 2006 hàng hóa thông qua cảng trên địa bàn thành
phố là 16,596 triệu tấn, tăng 11,7% so với năm 2005.
9. Về phương tiện tham gia giao
thông và người điều khiển phương tiện giao thông:
Phương tiện đường bộ: Tính đến 31/5/2007
tổng số xe ô tô các loại hiện có là 29.112 xe và 498.633 mô tô, trên 2.000 công
nông, trên 3.000 xích lô đạp và hàng vạn xe đạp.
Phương tiện đường thủy nội địa: Tính đến
31/5/2007 tổng số phương tiện thủy nội địa là 1.556 phương tiện, tổng trọng tải
248.498 tấn, tổng công suất 124.246 CV, tổng số khách là 14.301 khách.
Phương tiện đường sắt: Trên tuyến đường sắt
Hà Nội - Hải Phòng có 4 đôi tàu khách/ngày đêm, 10 đôi tàu hàng/ngày đêm.
Đánh giá ảnh hưởng của phương tiện: Bình quân hàng
tháng có khoảng 5.000 xe môtô, 200 ôtô được đăng ký mới. Thành phố Hải Phòng là
một trong các thành phố có số lượng phương tiện cơ giới đường bộ phát triển
nhanh trong toàn quốc. Với lượng hàng hóa thông qua cảng trong năm 2006 là
16,596 triệu tấn trong đó khoảng 70% được vận chuyển trên đường bộ bằng những
phương tiện lớn như đầu kéo chở container, sơ mi rơmooc và các xe siêu trường
siêu trọng, các xe thường chở quá tải trọng cho phép nên phá hỏng mặt đường dẫn
đến tuổi thọ của công trình ngắn. Tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng đi qua khu
vực nội thành, gây ùn tắc giao thông cục bộ nhất là vào giờ cao điểm và trên
những trục đường chính như: Trần Nguyên Hãn, Cầu Đất, khu vực Ngã 6.
II. CÔNG TÁC ĐẢM BẢO AN TOÀN
GIAO THÔNG, CHỐNG ÙN TẮC GIAO THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TRONG THỜI GIAN QUA
1- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo:
1.1- Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách,
Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành các văn bản
để lãnh đạo, chỉ đạo về công tác lập lại trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu
tai nạn trên địa bàn thành phố: Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 7/3/2003 của Ban
Thường vụ Thành ủy; Kế hoạch số 742/KH-UB ngày 6/3/2003 và Quyết định số
342/QĐ-UBND ngày 07/3/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc giao chỉ tiêu
giảm số thiệt hại về người do tai nạn giao thông trong năm 2007 cho các địa
phương.
Công tác tuyên truyền giáo dục được xác định là
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Ủy
ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo Ban An toàn giao thông thành phố phối hợp với
các ngành, các cấp tổ chức tuyên truyền Luật giao thông, Nghị quyết, Nghị định,
các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên các phương tiện thông
tin đại chúng và đến chính quyền các địa phương. Sở Văn hóa thông tin, Đài Phát
thanh và Truyền hình Hải Phòng, Báo Hải Phòng, Báo An ninh Hải Phòng cùng các đơn
vị liên quan đã tích cực tuyên truyền vận động để mọi người dân trên địa bàn
thành phố hiểu và thực hiện các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông.
1.2- Tập trung đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ
tầng giao thông, xây dựng, sửa chữa hệ thống cọc tiêu, biển báo hiệu, vạch kẻ
đường và sơn gằn giảm tốc trên các quốc lộ, tỉnh lộ và các đường phố trong nội
thành; duy tu sửa chữa hệ thống đường giao thông đô thị và các tuyến ngoại
thành; xây dựng barie đảm bảo an toàn giao thông tại khu vực giao cắt đường sắt
và đường 2A, lắp đặt bổ sung các biển báo hiệu; sửa chữa bổ sung gần 30 cụm đèn
tín hiệu giao thông tại các nút giao thông trong thành phố, một số huyện và
Quốc lộ 5. Nâng cấp cải tạo hầu như toàn bộ các tuyến tỉnh lộ. Bảo dưỡng, bảo
trì, quản lý các bến phà, duy tu, sửa chữa hệ thống báo hiệu đường thủy nội địa.
1.3 Công tác tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm
tập trung trên cả tuyến đường bộ và đường thủy:
- Đường bộ: Kiểm tra hoạt động các phương tiện giao
thông đường bộ, giải quyết tình trạng mất trật tự tại các bến xe, tình trạng
lấn chiếm vỉa hè và hành lang an toàn giao thông trên địa bàn thành phố.
- Đường thủy: Thường xuyên tuần tra kiểm soát hoạt
động của các phương tiện tham gia đường thủy nội địa, đặc biệt chú trọng việc hoạt
động của các bến khách ngang sông, phương tiện chở khách và các cảng thủy nội
địa.
2- Tình hình tai nạn giao
thông và ùn tắc giao thông:
2.1- Tình hình tai nạn giao thông:
- Từ năm 2003 đến tháng 5/2007 thành phố Hải Phòng
đã xảy ra 818 vụ tai nạn giao thông đường bộ - đường sắt - đường thủy làm chết
783 người, bị thương 388 người trong đó: Đường bộ xảy ra 752 vụ, chết 750
người, bị thương 383 người; đường sắt xảy ra 21 vụ, chết 21 người, bị thương 4
người; đường thủy, xảy ra 45 vụ, chết 12 người, bị thương 1 người. Thiệt hại
tài sản: Hư hỏng 53 ô tô, 568 môtô, 39 tàu, thuyền cùng hàng hóa trên phương
tiện và hàng trăm xe thô sơ, ước tính hàng chục tỷ đồng.
- Trong 752 vụ tai nạn giao thông đường bộ: Ôtô 260
vụ= 34,6%, mô tô 463 vụ= 61,6%, phương tiện khác 29 vụ= 3,8%; nguyên nhân: Do
không làm chủ tốc độ 327 vụ= 43,5%; do tránh vượt sai quy định 279 vụ= 37,1%;
do không chú ý quan sát 63 vụ= 8,4%; do vi phạm thể lệ 49 vụ= 6,5%, các nguyên
nhân khác 34 vụ= 4,5%.
Như vậy tai nạn giao thông gia tăng chủ yếu trên
đường bộ, chiếm trên 90% số vụ và số người chết, trong đó tai nạn do mô tô- xe
máy chiếm gần 70%. Độ tuổi vi phạm luật giao thông phần lớn ở lứa tuổi 18 đến
30 chiếm gần 40%.
2.2- Tình hình ùn tắc giao thông:
Tình hình ùn tắc cục bộ diễn ra chủ yếu ở 2 khu
vực: Các điểm giao cắt trong nội thành với đường sắt khi có tàu hỏa đi qua nhất
là vào giờ cao điểm. Một số nút giao thông vào giờ cao điểm như: Ngã ba Hàng
Kênh, Cầu Niệm, ngã tư Cột Đèn, ngã tư Tam Kỳ.
2.3- Nguyên nhân:
- Hệ thống giao thông cũ, mới đan xen, không đồng
bộ, các điểm giao cắt với quốc lộ không có hệ thống đường gom; các điểm giao
cắt với đường chính chưa đủ gờ giảm tốc và hệ thống tín hiệu giao thông; các
điểm đường bộ giao cắt đường sắt chưa đủ hệ thống barie theo đúng quy định;
tình trạng chiếm dụng trái phép hành lang an toàn giao thông (đường bộ, đường
thủy, đường sắt) để xây dựng các công trình chưa được phát hiện, xử lý kịp
thời; tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường làm nơi kinh doanh buôn bán, họp chợ,
tập kết nguyên vật liệu vẫn diễn ra.
- Tình trạng khoanh vùng nuôi trồng thủy sản, khai
thác cát, đổ phế thải xuống lòng sông làm ách tắc dòng chảy, dẫn đến nguy cơ
mất an toàn giao thông đường thủy nội địa vẫn xảy ra.
- Số lượng điểm giao thông tĩnh quá ít, diện tích
bến các bến xe hẹp và công tác quản lý chưa chặt chẽ nên có tình trạng xe chạy
vòng vo đón khách; đậu đỗ không đúng quy định, dẫn đến ách tắc giao thông.
- Số lượng phương tiện tham gia giao thông tăng
nhanh trong khi chất lượng một số phương tiện không đảm bảo do những kẽ hở
trong khâu đăng ký, kiểm định; chưa có biện pháp mạnh để xử lý triệt để số
phương tiện quá hạn sử dụng và số phương tiện không đủ điều kiện an toàn nhưng
vẫn cố tình lưu hành.
- Chưa lập đủ hồ sơ để xác định và đề ra biện pháp
xóa các điểm tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông cao (điểm đen).
- Công tác chỉ đạo về trật tự an toàn giao thông
tại một số địa phương chưa quyết liệt, thiếu bài bản, mang tính phong trào.
Thậm chí có những địa phương còn biểu hiện buông lỏng quản lý nhà nước trong
công tác trật tự an toàn giao thông chưa coi đây là nhiệm vụ trọng tâm để chỉ
đạo thường xuyên liên tục. Ban chỉ đạo An toàn giao thông của một số quận,
huyện hoạt động chưa hiệu quả, thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác
trật tự an toàn giao thông trên địa bàn quản lý, dẫn tới việc nhiều đường ngang
đấu nối trái phép với đường Quốc lộ, giao cắt trái phép với đường sắt, tình
trạng phá hoại các công trình giao thông như lấy cắp biển báo hiệu, đập phá tấm
đan, tháo dỡ lan can, các phụ kiện đèn tín hiệu, lấn chiếm hành lang an toàn
giao thông.
- Công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao
thông còn nhiều hạn chế, bất cập; việc điều tra, truy cứu trách nhiệm đối với
các trường hợp vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng một số vụ việc còn thiếu kiên quyết,
tính giáo dục chưa cao.
- Các cơ quan chức năng như: Công an, Thanh tra
giao thông và chính quyền địa phương chưa hoạt động đồng bộ và quyết liệt, nên
hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao
thông chưa cao.
- Thực trạng cơ sở hạ tầng giao thông chưa đáp ứng
kịp với tốc độ gia tăng của phương tiện tham gia giao thông. Nhiều tuyến đường
mặt đường còn hẹp không đủ điều kiện phân làn, phân luồng, các đường cong không
đảm bảo tầm nhìn, bán kính nhỏ, các điểm đấu nối giữa đường nhánh với quốc lộ,
tỉnh lộ có độ dốc lớn, các thiết bị phụ trợ phòng ngừa tai nạn giao thông chưa
đầy đủ như biển báo, đèn tín hiệu, cọc tiêu. Hành lang an toàn giao thông còn
chưa thông thoáng làm hạn chế tầm nhìn của lái xe.
- Ý thức chấp hành pháp luật về an toàn giao thông
của một bộ phận người tham gia giao thông còn kém. Công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật về an toàn giao thông chưa được thường xuyên, sâu rộng, đặc biệt
đối với thanh niên, học sinh, sinh viên và ở các vùng nông thôn.
3. Dự báo tình hình trật tự
an toàn giao thông trong thời gian tới:
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển nhanh
về kinh tế, xã hội, theo đó cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, tình hình trật
tự an toàn giao thông, công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông và trật tự
vệ sinh môi trường đô thị cũng bị ảnh hưởng, tác động trực tiếp, nếu không được
làm tốt sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội, nhất là hình ảnh và môi
trường đầu tư của thành phố. Cụ thể:
- Các đường giao thông, các khu đô thị, các khu
công nghiệp mới được hình thành, phát triển sẽ làm tăng nhanh số lượng phương
tiện giao thông, tác động mạnh đến kết cấu cơ sở hạ tầng các công trình giao thông
do phát triển không đồng bộ; ý thức tham gia giao thông, thói quen về nếp sống
văn minh đô thị của một bộ phận người dân chưa kịp hình thành, thích nghi.
- Lượng hàng hóa thông qua Cảng Hải Phòng sẽ tăng
nhanh: từ 16,596 triệu tấn/năm 2006, dự kiến năm 2007 là 18 triệu tấn và 28
triệu tấn năm 2010 nên các phương tiện, nhất là tàu hỏa và phương tiện vận tải
đường bộ (loại siêu trường, siêu trọng) tăng nhanh.
- Số lượng người nhập cư, khách du lịch, khách nước
ngoài đến thành phố tham quan du lịch và tìm kiếm cơ hội làm ăn sẽ tăng nhanh,
đòi hỏi cao hơn nhiều lần về số lượng, chất lượng phương tiện giao thông.
- Điều kiện kinh tế phát triển, dân số tăng thúc
đẩy phương tiện giao thông cá nhân, nhất là xe máy tại các vùng nông thôn tăng
nhanh.
- Các dòng sông phục vụ giao thông đường thủy nội
địa dễ bị sa bồi, khan cạn, tác động xấu đến hoạt động của các phương tiện thủy.
Dự báo trong năm 2008 và những năm tiếp theo, số
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy trên địa bàn thành phố
sẽ tiếp tục tăng nhanh, riêng phương tiện giao thông đường bộ hàng năm tăng
trên 50.000 xe mô tô, gần 2.000 xe ô tô. Vì vậy, nếu không có các giải pháp
thích hợp, kịp thời ngay từ bây giờ, hệ thống giao thông, đặc biệt là giao
thông đường bộ bị quá tải, tình hình tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông sẽ
không thể tránh khỏi.
Tập trung làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng mạng
lưới giao thông của thành phố theo hướng văn minh hiện đại gắn với quy hoạch
của thành phố đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI
PHÁP
I. MỤC TIÊU
1- Mục tiêu cấp bách:
- Tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác
đảm bảo trật tự an toàn giao thông, nhằm giảm dần tai nạn giao thông: năm 2007
giảm 22 người chết và mỗi năm giảm 10% số người chết do tai nạn giao thông để
đến năm 2010 số người chết vì tai nạn giao thông trên thành phố giảm 50% so với
năm 2006.
- Trên địa bàn thành phố không có nạn đua xe, không
ùn tắc giao thông.
- Nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành,
các địa phương và toàn thể nhân dân về ý thức chấp hành Luật giao thông, lập
lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động giao thông vận tải và trong bảo vệ công
trình giao thông, bảo vệ hành lang an toàn giao thông.
2- Mục tiêu lâu dài: Mục tiêu
cụ thể năm 2007:
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch theo yêu cầu xây
dựng đô thị mới văn minh, hiện đại.
- Đầu tư tăng số lượng và nâng cao chất lượng cơ sở
hạ tầng giao thông của toàn bộ hệ thống giao thông trên địa bàn thành phố gồm
cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
- Nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp về
công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông và ý thức của mọi người dân khi
tham gia giao thông, tự giác chấp hành các quy định về an toàn giao thông ở mọi
nơi, mọi lúc.
II - GIẢI PHÁP
1- Những giải pháp cấp bách
thực hiện trong năm 2007:
- Từ ngày 01/8/2007, phát động công chức, viên
chức, cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang gương mẫu thực hiện đội mũ bảo
hiểm khi tham gia giao thông bằng xe mô tô, xe gắn máy trên tất cả các tuyến
đường để thực hiện lộ trình bắt buộc mọi người phải đội mũ bảo hiểm khi tham
gia giao thông bằng xe mô tô, xe gắn máy trên tất cả các tuyến đường thuộc địa
bàn thành phố kể từ ngày 01/1/2008.
- Từ 01/8/2007, kiên quyết xử lý đối với các hành
vi: lạng lách trên đường; vượt đèn đỏ; đi vào đường một chiều, đường cấm; chở
quá tải, quá số người quy định và các loại xe quá hạn sử dụng, xe tự chế lưu
thông trên các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố.
- Bắt buộc những người vi phạm Luật giao thông
đường bộ học lại những điều luật mà người đó vi phạm và được kiểm tra trước khi
xử phạt vi phạm hành chính.
- Đến 30/12/2007, xử lý triệt để các điểm tiềm ẩn
tai nạn giao thông cao trên địa bàn thành phố; hoàn chỉnh gờ cưỡng bức giảm tốc
độ theo quy định của Cục Đường bộ Việt Nam đối với các đường giao cắt với đường
quốc lộ, tỉnh lộ.
- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, trường học phải
cam kết với cấp trên về việc thực hiện Luật Giao thông trong đơn vị mình quản
lý. Từ 01/8/2007 Công an thành phố chịu trách nhiệm thông báo hành vi vi phạm
Luật Giao thông đến cơ quan, đơn vị, trường học, địa phương người vi phạm để
cùng phối hợp giáo dục, xử lý.
2- Những giải pháp cơ bản:
2.1- Công tác tuyên truyền giáo dục:
- Tập trung phổ biến các điều Luật giao thông đường
bộ trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng cho mọi người, đặc biệt các
đối tượng là thanh niên, học sinh, sinh viên. Xử lý nghiêm các trường hợp học
sinh chưa đủ tuổi, không có giấy phép lái xe sử dụng xe mô tô, xe gắn máy.
- Tổ chức mở diễn đàn nhân dân tham gia đóng góp ý
kiến về trật tự an toàn giao thông, chống ùn tắc giao thông trên Báo Hải Phòng,
Đài Phát thanh và truyền hình Hải Phòng. Phát động phong trào toàn dân tham gia
giữ gìn trật tự an toàn giao thông, vận động từng gia đình ký cam kết không vi
phạm Luật giao thông; phối hợp đồng bộ các lực lượng thực thi pháp luật với các
tổ chức, đoàn thể, đơn vị, cơ quan tham gia đấu tranh, xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông.
- Có biện pháp chỉ đạo thực hiện đúng chương trình
giáo dục về trật tự an toàn giao thông ở tất cả các cấp học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; căn cứ tình hình để tổ chức học ngoại khóa hoặc tổ chức các hoạt động
để tìm hiểu và giáo dục về về trật tự an toàn giao thông cho phù hợp.
2.2- Công tác quy hoạch giao thông:
Tập trung làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng mạng
lưới giao thông của thành phố theo hướng văn minh hiện đại gắn với quy hoạch
của thành phố đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải để hoàn thành
quy hoạch điều chỉnh hệ thống mạng lưới đường sắt đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020.
- Hoàn thành quy hoạch mạng lưới giao thông đường
thủy nội địa.
- Quy hoạch tổng thể đồng bộ các điểm giao thông
tĩnh trong nội thành.
- Tranh thủ vốn Ngân hàng thế giới để lập Dự án đầu
tư tổ chức vận tải hành khách công cộng và xây dựng đường vành đai 3.
- Hoàn thành quy hoạch điều chỉnh mạng lưới giao
thông thành phố đến năm 2010 định hướng đến năm 2020. Hoàn thành quy hoạch mạng
lưới giao thông nông thôn.
- Lập dự án sử dụng xe buýt để đưa, đón các cháu
học sinh đến trường học.
2.3- Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng giao
thông:
- Đối với cầu đường bộ: Khẩn trương xây dựng Cầu
Khuể, Cầu Rào 2, nghiên cứu khảo sát lập dự án Cầu Niệm 2.
- Đối với quốc lộ: Nghiên cứu xây dựng đường gom
Quốc lộ 10, cải tạo nâng cấp Quốc lộ 37. Triển khai thực hiện công tác giải
phóng mặt bằng để xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng.
- Đối với tỉnh lộ: Nâng cấp mở rộng đường 354,
đường 352.
- Đường đô thị: Xây dựng đường Hồ Sen - Cầu Rào 2,
đường Quán Mau - Cầu Rào 2, đường Đông Khê 2, Lạch Tray - Hồ Đông và nghiên cứu
phương án giao thông qua các điểm giao cắt với đường sắt trong nội thành.
- Đường giao thông nông thôn: Phấn đấu 100% các
đường giao thông nông thôn có đầy đủ các biển báo hiệu giao thông.
- Rà soát bổ sung hệ thống cọc mốc chỉ giới, giải
toả, chống lấn chiếm hành lang an toàn giao thông. Hoàn thành dự án đèn tín
hiệu giao thông bằng nguồn vốn vay ODA trong năm 2007; lắp đặt 25 cụm đèn tín
hiệu giao thông, 40 cụm sơn gằn giảm tốc và lắp đặt 500 biển báo hiệu giao
thông trên các điểm giao cắt khác. Tiếp tục dự án lắp đặt camera tại 20 nút
giao thông.
- Phối hợp với Tổng Công ty đường sắt để xây dựng
trước barie tại nút giao đường sắt với đường ngang xã Lê Thiện, huyện An Dương.
- Giải toả việc lấn chiếm hành lang an toàn giao
thông trên tuyến Quốc lộ 10; đường 352; đường 354.
- Lắp đặt một số bảng điện tử tại các cửa ô thành
phố và một số trục đường giao thông chính để tuyên truyền các nội dung về công tác
bảo đảm an toàn giao thông.
- Đường sắt: Lắp đặt hệ thống barie tại tất cả các
điểm giao cắt hợp lệ. Giải toả việc lấn chiếm hành lang an toàn giao thông
đường sắt qua Hải Phòng.
- Đường thủy nội địa: Đầu tư phương tiện cứu hộ
phục vụ công tác đảm bảo an toàn giao thông đường thủy nội địa. Tăng cường công
tác bảo vệ, chống lấn chiếm, giải toả ngay việc lấn chiếm hành lang an toàn
giao thông trên các tuyến đường thủy, nhất là trên địa bàn huyện Thủy Nguyên.
Hoàn thành và đưa vào sử dụng khu neo đậu phương tiện thủy nội địa vi phạm.
2.4 - Công tác kiểm định phương tiện giao
thông, đào tạo, sát hạch lái xe:
- Công tác kiểm định:
+ Làm tốt và nâng cao chất lượng kiểm định kỹ thuật
phương tiện tham gia giao thông bằng việc tăng cường quản lý Nhà nước và giám sát
việc đăng kiểm kỹ thuật phương tiện đường bộ, đường sắt, đường thủy.
+ Phấn đấu 100% phương tiện tham gia giao thông
đường thủy phải có đăng ký, đăng kiểm.
- Công tác đào tạo, cấp Giấy phép lái xe:
+ Chấn chỉnh, nâng cao chất lượng công tác quản lý,
đào tạo và sát hạch cấp giấy phép lái xe. Hoàn thành và đưa vào sử dụng Trung
tâm sát hạch lái xe Nam Triệu và Trung tâm sát hạch lái xe Quân khu III trong 6
tháng cuối năm 2007, Trung tâm sát hạch lái xe Trường đào tạo nghề giao thông
công chính (trước quý 1 năm 2008).
+ Có biện pháp kiểm tra, ngăn chặn và xử lý nghiêm
lái xe sử dụng các chất kích thích pháp luật nghiêm cấm hoặc các tệ nạn xã hội
khác. Đổi mới hình thức đào tạo và cấp bằng, chứng chỉ chuyên môn cho người
điều khiển phương tiện thủy nội địa (đến hết năm 2007 số người điều khiển
phương tiện thủy nội địa có bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn đạt 70% và đến hết
năm 2008 đạt 1
2.5 - Công tác tuần tra kiểm soát và xử lý vi
phạm:
- Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát trên các
quốc lộ, tỉnh lộ khu vực thường xảy ra tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông;
các bến xe, điểm giao cắt giữa đường sắt và đường bộ, đường đô thị, các tuyến
giao thông thủy nội địa; xử lý kiên quyết các trường hợp vi phạm. Phòng chống
đua xe trái phép, kiểm tra, xử lý triệt để xe hết niên hạn sử dụng, xe tự tạo
và các phương tiện không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật tham gia giao thông.
- Tiếp tục đầu tư trang thiết bị phục vụ công tác
tuần tra kiểm soát; có thiết bị kiểm tra và xử lý người tham gia giao thông có
nồng độ cồn trong máu cao hơn quy định.
2.6- Về tổ chức quản lý giao thông:
- Chấn chỉnh và tổ chức quản lý tốt hoạt động của
các tuyến xe buýt.
- Triển khai thực hiện đề án: Quy hoạch mạng lưới
vận tải hành khách công cộng bằng buýt theo Quyết định số 1118/QĐ-UBND ngày 25/6/2007.
Khuyến khích mở thêm tuyến xe buýt nội thành (nghiên cứu chính sách ưu đãi cho
các doanh nghiệp mở tuyến xe buýt, nhất là các tuyến xe chạy qua các trường
Trung học phổ thông). Cho phép xe bus nội đô được đi 2 chiều ở những tuyến
đường 1 chiều dành cho ô tô.
- Hạn chế hoạt động của xe xích lô đạp (chỉ cho
hoạt động từ 21 h đến 05h sáng hôm sau).
- Tiếp tục rà soát và điều chỉnh phân luồng giao
thông nội thành cho phù hợp.
2.7- Kiện toàn Ban Chỉ đạo an toàn giao thông các
địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương làm trưởng ban để thực
hiện các giải pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn và chịu
trách nhiệm cá nhân trước Ủy ban nhân dân thành phố.
Phần thứ ba
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Thường trực Ban An toàn giao thông thành phố tham
mưu, đề xuất giúp Ủy ban nhân dân thành phố về các chủ trương, biện pháp để
thực hiện các nội dung của Đề án.
2- SởVăn hóa thông tin, Đài Phát thanh và Truyền
hình Hải Phòng, Báo Hải Phòng, Báo An ninh Hải Phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo,
Ủy ban nhân dân các quận, huyện, thị xã tăng cường và đổi mới việc tuyên truyền
các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông, các nội dung của Đề án đến
với mọi cơ quan, đơn vị, trường học, khu dân cư để mọi người dân cùng biết và
thực hiện.
3- Các ngành: Giao thông công chính, Tài chính, Xây
dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Giáo dục và Đào tạo, Công an thành phố; Ủy ban nhân
dân các địa phương chỉ đạo các cơ quan chuyên môn khẩn trương hoàn thành các
nội dung về: Quy hoạch giao thông, xây dựng, sửa chữa các công trình giao
thông, xác định và đề ra biện pháp xóa các điểm tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao
thông cao.
4- Công an thành phố, Sở Giao thông công chính, Ủy
ban nhân dân các quận, huyện, thị xã chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường
công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao
thông.
5- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thành phố, Hội Nông dân thành phố, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam thành phố, Liên đoàn Lao động thành phố chủ động phối hợp
với các ngành, các địa phương tổ chức các hình thức để tuyên truyền và vận động
các gia đình Đoàn viên, Hội viên chấp hành các quy định về an toàn giao thông
và cam kết không vi phạm Luật giao thông.
Trên cơ sở các mục tiêu và giải pháp về giảm thiểu
tai nạn giao thông, chống ùn tắc giao thông, các ngành, các địa phương, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các đoàn thể quần chúng lập kế hoạch cụ
thể về nội dung, thời gian, kinh phí để làm cơ sở tổ chức triển khai thực hiện
Đề án.
Sở Tài chính cùng Thường trực Ban An toàn giao
thông thành phố cân đối nguồn kinh phí thu từ xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực trật tự an toàn giao thông và các nguồn vốn khác, đề xuất với Ủy ban
nhân dân thành phố quyết định chi kinh phí cho việc thực hiện nội dung, yêu cầu
trên.
Thường trực Ban An toàn giao thông thành phố chịu
trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các ngành, các địa phương tổ chức thực
hiện và thường xuyên báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố./.