HỘI ĐỒNG THẨM
PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
01/2013/NQ-HĐTP
|
Hà Nội, ngày
06 tháng 11 năm 2013
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 60 CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁN TREO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
- Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân;
- Để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại
Điều 60 của Bộ luật hình sự;
- Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Án treo
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy
không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.
Điều 2. Việc xem xét cho người
bị kết án phạt tù được hưởng án treo
1. Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án
treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít
nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm
quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật hình sự;
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần
phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách,
pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác; không
vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm
hành chính, bị xử lý kỷ luật.
Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được
xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử
lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi
phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý
kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng
không phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp
này phải hết sức chặt chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi thuộc một
trong các trường hợp sau:
b1) Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm
tù về tội do cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều
bản án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2
năm;
b2) Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý
mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;
b3) Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày
phạm tội lần này đã quá 1 năm;
b4) Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được
xóa án tích;
b5) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;
b6) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
một lần và có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời
gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2
năm;
b7) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến
ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;
b8) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc
xử lý kỷ luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18
tháng;
b9) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc
xử lý kỷ luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà thời
gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính
đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;
b10) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc
xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa
bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng;
b11) Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính;
c) Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;
d) Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ
hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;
nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự là những tình tiết được hướng
dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một
số quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999”;
đ) Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi
chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng.
2. Không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải
nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật hình sự
bao gồm: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ,
tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội
dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu
quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
b) Bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội;
c) Trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và
bị đưa ra xét xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án
khác hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác;
d) Bị cáo tại ngoại bỏ trốn trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử, Tòa án đã đề nghị cơ quan điều tra truy nã.
3. Khi xem xét, quyết định cho người bị kết án
phạt tù được hưởng án treo, cần lưu ý:
a) Đối với trường hợp người bị xử phạt tù đã bị
tạm giữ, tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giữ, tạm
giam ngắn hơn thời hạn phạt tù;
b) Những trường hợp người phạm tội có nhiều tình
tiết giảm nhẹ, nếu có đủ điều kiện để áp dụng Điều 47 của Bộ luật
hình sự thì cũng phải xử trong khung hình phạt liền kề là đã thể hiện chính
sách khoan hồng đối với họ; không được xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với
các tội phạm mà dư luận xã hội lên án, đặc biệt là các tội phạm về chức vụ, để
phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
phòng, chống tham nhũng nói riêng;
c) Những trường hợp có tình tiết định khung tăng
nặng, nếu Viện kiểm sát không truy tố cũng phải áp dụng để xét xử đúng quy định
của pháp luật; nếu còn có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự cũng phải được áp dụng
đầy đủ; không được vì muốn cho hưởng án treo mà không áp dụng đầy đủ các tình
tiết định khung tăng nặng và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 48 của Bộ luật hình sự;
d) Khi quyết định hình phạt phải tuân thủ nguyên
tắc xử lý quy định tại Điều 3 của Bộ luật hình sự kết hợp với
các căn cứ quyết định hình phạt quy định tại Điều 45 của Bộ luật
hình sự; không được cho rằng án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù để tăng hình phạt lên cao hơn các trường hợp khác không có căn cứ và cho hưởng
án treo; không được tùy tiện giảm mức hình phạt tù không có căn cứ để đủ điều
kiện về mức hình phạt tù quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình
sự và cho hưởng án treo.
Điều 3. Ấn định thời gian thử
thách
Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, Tòa án
phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được
dưới 1 năm và không được quá 5 năm.
Điều 4. Thời điểm bắt đầu
tính thời gian thử thách
Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là
ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; cụ thể như sau:
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án
treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm
bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án
treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời
gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng
án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời
gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án
treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc
thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho
hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp
phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị hủy để
điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ
thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ
ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau theo hướng dẫn tại các
khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
Điều 5. Giao người được hưởng
án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội giám sát, giáo dục trong thời
gian thử thách
1. Khi cho người bị xử phạt tù được hưởng án
treo, Tòa án phải ghi rõ trong bản án việc giao người được hưởng án treo cho Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo để giám sát và giáo dục trong thời gian thử
thách.
2. Khi giao người được hưởng án treo cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử
thách, Tòa án phải ghi rõ tên Ủy ban nhân dân cấp xã; tên huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; tên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được giao giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo, đồng thời ghi rõ trong trường hợp người được
hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
3. Khi giao người được hưởng án treo cho đơn vị
quân đội để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách, Tòa án phải ghi rõ
tên và địa chỉ đầy đủ của đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo, đồng thời ghi rõ trường hợp người được hưởng án treo thay đổi
nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 69 của
Luật thi hành án hình sự.
Điều 6. Tổng hợp hình phạt
trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử
thách
Trường hợp người được hưởng án treo mà phạm tội
mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm
đó và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 của Bộ luật hình sự; nếu họ đã bị tạm giam,
tạm giữ thì thời gian họ đã bị tạm giam, tạm giữ về tội phạm bị đưa ra xét xử lần
này cũng như thời gian tạm giam, tạm giữ về tội phạm đã bị xét xử ở bản án trước
được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Điều 7. Trường hợp người được
hưởng án treo bị đưa ra xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng
án treo
Trường hợp một người đang được hưởng án treo mà
sau đó lại phát hiện trước khi được hưởng án treo họ đã thực hiện một tội phạm
khác, thì Tòa án xét xử, quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không cho
hưởng án treo một lần nữa. Người phạm tội đồng thời phải chấp hành hai bản án.
Việc thi hành án trong trường hợp này do các cơ quan được giao trách nhiệm thi
hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định tại Điều 5 của
Luật thi hành án hình sự.
Ví dụ: Ngày 15-12-2011, Bùi Văn B phạm tội đánh
bạc. Ngày 20-3-2012, Bùi Văn B bị Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 6 tháng
tù về tội đánh bạc, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 1 năm. Sau
khi bị kết án về tội đánh bạc và bản án có hiệu lực pháp luật, Cơ quan cảnh sát
điều tra lại phát hiện trước đó, ngày 10-10-2011, Bùi Văn B còn phạm tội trộm cắp
tài sản và bị truy tố ra Tòa án huyện M. Đối với trường hợp này, khi xét xử Tòa
án huyện M không cho Bùi Văn B hưởng án treo một lần nữa. Nếu bản án của Tòa án
huyện M không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật thì Bùi Văn B
phải chấp hành đồng thời hai bản án (bản án của Tòa án nhân dân thành phố V và
bản án của Tòa án nhân dân huyện M).
Điều 8. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 10 năm 2013 và có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 25 tháng 12 năm 2013.
2. Các hướng dẫn trước đây của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao về án treo trái với hướng dẫn của Nghị quyết này đều
bãi bỏ.
3. Trường hợp người phạm tội đã bị xét xử trước
ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các văn bản hướng dẫn trước đây và bản
án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị
khác.
4. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc cần
phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung thì đề nghị phản ánh cho Tòa án nhân dân
tối cao để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Nơi nhận:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội; (để
giám sát)
- Ủy ban pháp luật của Quốc hội; (để giám sát)
- Ủy ban tư pháp của Quốc hội; (để giám sát)
- Ban Nội chính Trung ương; (để báo cáo)
- Văn phòng Trung ương Đảng; (để báo cáo)
- Văn phòng Chủ tịch nước; (để báo cáo)
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (để phối hợp)
- Bộ Tư pháp; (để phối hợp)
- Bộ Công an; (để phối hợp)
- Các TAND và TAQS các cấp; (để thực hiện)
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC; (để thực hiện)
- Lưu: VT (Viện KHXX, TANDTC).
|
TM. HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Trương Hòa Bình
|