HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
01/2010/NQ-HĐTP
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2010
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 248 VÀ ĐIỀU 249 CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ chức Toà án
nhân dân;
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Về một
số quy định tại Điều 248 của Bộ luật hình sự
1. “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực
hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà
không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép
được cấp.
2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc
không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các
lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:
a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng
đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm
hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp
khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định
tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh
bạc;
b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng
đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc
trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở
lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối
với lần đánh bạc đó;
c) Trường hợp
đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của
từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh
bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng
“phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ
luật hình sự;
d) Trường hợp
đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của
từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện
vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình
tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.
3. “Tiền hoặc
hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc
hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc
hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc
sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà
có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
4. Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân
biệt:
a) Trường hợp
nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc
là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những
người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;
b) Trường hợp
đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa... thì một lần
chơi số đề, một lần cá độ bóng đá, một lần cá độ đua ngựa... (để tính là một lần
đánh bạc) được hiểu là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một trận bóng đá, tham gia cá độ trong một
kỳ đua ngựa... trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều đợt. Trách nhiệm
hình sự được xác định đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp
này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.
Ví dụ 1: Tại kỳ đua ngựa thứ 39, tổ chức vào ngày
15-7-2010, trong khoảng thời gian từ 9 giờ đến 11 giờ A đã cá độ ba đợt cụ thể
là đợt một 500.000 đồng, đợt hai 1.000.000 đồng, đợt ba 2.000.000 đồng, trong
trường hợp này chỉ coi A đã đánh bạc một lần trong kỳ đua ngựa đó
với tổng số tiền là 3.500.000 đồng.
Ví dụ 2: Ngày 20-7-2010, trong khoảng thời gian từ
10 giờ đến 16 giờ, B mua ba số đề trong một lô đề cụ thể là: mua
số 17 với số tiền là 500.000 đồng, mua số 20 với số tiền là 2.100.000 đồng, mua
số 25 với số tiền 3.000.000 đồng; trong
trường hợp này, chỉ coi B đánh bạc một lần.
Trong các trường hợp nêu tại ví dụ 1 và ví dụ 2
trên đây, nếu số tiền cá độ đua ngựa, số tiền mua số đề của mỗi đợt từ
2.000.000 đồng trở lên thì cũng không
được áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.
5. Việc xác định
số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ
dùng đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa...
như sau:
5.1. Xác định
số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc
a) Trường hợp
người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng
đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực
tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ.
Ví dụ: B mua
5 số đề với tổng số tiền là 100.000 đồng, tỷ lệ được thua 1/70 lần, trong đó có
4 số đề mua mỗi số 10.000 đồng, 1 số đề mua với số tiền 60.000 đồng, hành vi của
B bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa...
và B đã trúng số đề mua với số tiền 60.000 đồng thì số tiền B dùng đánh bạc
trong trường hợp này là 100.000 đồng + (60.000 đồng × 70 lần) = 4.300.000 đồng.
b) Trường hợp
người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát
hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc
là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ.
Ví dụ 1:
Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.1 khoản 5 Điều này, nếu B không trúng số nào
thì số tiền B dùng đánh bạc trong trường hợp này là 100.000 đồng.
Ví dụ 2:
Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.1 khoản 5 Điều này, nếu hành vi của B bị phát
hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền B dùng đánh bạc
trong trường hợp này là 100.000 đồng (không phụ thuộc vào việc khi có kết quả mở
thưởng B có trúng số đề hay không trúng số đề).
5.2. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ
cá độ dùng đánh bạc
a) Trường hợp
có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ
cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của
những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả
cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người).
Ví dụ: D là
chủ đề của 5 người chơi số đề khác nhau, mỗi người chơi một số đề với số tiền
là 50.000 đồng (tổng cộng là 250.000 đồng); tỷ lệ được thua là 1/70 lần và có 2
người đã trúng số đề thì số tiền D dùng để đánh bạc trong trường hợp này là
250.000 đồng + (50.000 đồng × 70 lần × 2 người) = 7.250.000 đồng.
b) Trường hợp
không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện,
ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa...
thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ
đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.
Ví dụ 1:
Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.2 khoản 5 Điều này, nếu cả 5 người chơi không
trúng số đề thì số tiền mà chủ đề dùng đánh bạc là 50.000 đồng × 5 người =
250.000 đồng.
Ví dụ 2:
Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.2 khoản 5 Điều này, nếu hành vi của D bị phát
hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền D dùng đánh bạc
trong trường hợp này là 50.000 đồng × 5 người = 250.000 đồng (không phụ thuộc vào việc khi có kết quả mở
thưởng có hay không có người trúng số đề).
Điều 2. Về một số quy định
tại Điều
249 của Bộ luật hình sự
1. Tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “với quy mô lớn”:
a) Tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc
cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị
từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
b) Có tổ chức
nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục
vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ,
có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp,
điện thoại... để trợ giúp cho việc đánh bạc;
c) Tổng số tiền
hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ 20.000.000 đồng trở
lên.
2. Người tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm
a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá
trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách
nhiệm hình sự về “tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nhưng họ phải chịu trách
nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc.
3. “Thu lợi bất
chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” được xác định như sau:
a) Thu lợi bất
chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng là thu lợi bất chính lớn.
b) Thu lợi bất
chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000 đồng là thu lợi bất chính rất lớn.
c) Thu lợi bất
chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất chính đặc biệt lớn.
Điều 3. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết
này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 23 tháng
9 năm 2010 và có hiệu lực thi hành sau bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày ký ban
hành.
2. Mục 6, mục 7 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật hình sự và mục 9 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP
ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật hình sự hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị quyết
này có hiệu lực.
3. Kể từ ngày
Nghị quyết này có hiệu lực, nếu người thực hiện một trong các hành vi quy định
tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự mà theo Nghị
quyết này là không phải chịu trách nhiệm hình sự, mà vụ án đang trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp
Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm
hình sự của bị can mà Toà án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Toà án áp dụng
điểm b khoản 2 Điều 176 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết
định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp
Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định) rút quyết định truy tố và đề nghị
Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử
vụ án đó áp dụng Điều 181 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ
án;
c) Trường hợp
Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Toà án có thẩm quyền phải
ra quyết định mở phiên toà và Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 25 Bộ luật hình sự, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; trường hợp bị
cáo đang bị tạm giam thì áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng
hình sự trả tự do cho bị cáo;
d) Trường hợp
vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm phải mở
phiên toà và Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 25 Bộ luật
hình sự, điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự,
sửa bản án sơ thẩm, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo;
đ) Đối với
các trường hợp đình chỉ vụ án được hướng dẫn tại điểm b hoặc được miễn trách
nhiệm hình sự được hướng dẫn tại các điểm c và d khoản 3 này các bị cáo vẫn phải
chịu trách nhiệm về các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý
vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội
phạm khác (nếu có), thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Trường hợp
người phạm tội đã bị kết án trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các
văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị
quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có
những căn cứ kháng nghị khác; nếu theo Nghị quyết này họ không phải chịu trách
nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt. Việc miễn
chấp hành hình phạt được thực hiện như sau:
a) Đối với
người đang chấp hành hình phạt tù, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi
người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
b) Đối với người đang hoặc
chưa chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, người bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo đang chấp hành thời gian thử
thách thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình
phạt, chấp hành thời gian thử thách của án treo ra quyết định miễn chấp hành
toàn bộ hoặc phần hình phạt còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp.
c) Đối với người bị xử phạt
tù đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt
hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người
đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc
miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
d) Trường hợp
một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản
án), trong đó có tội theo hướng dẫn của Nghị quyết này thì không phải là tội phạm
nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
- Nếu người bị
kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian
đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với
tội không thuộc trường hợp được hướng dẫn tại Nghị quyết này, thì họ được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà theo hướng dẫn của Nghị quyết này
thì không phải là tội phạm nữa.
- Nếu người bị kết án đang chấp hành hình phạt
nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Toà
án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp được hướng dẫn tại Nghị quyết
này, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
5. Khi
đình chỉ vụ án, miễn trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành hình phạt, thì Toà án
ra quyết định đình chỉ, miễn trách nhiệm hình sự hoặc quyết định miễn chấp hành
hình phạt cần giải thích cho người được đình chỉ vụ án, miễn trách nhiệm hình sự
hoặc được miễn chấp hành hình phạt biết là việc đình chỉ, miễn trách nhiệm hình
sự hoặc miễn chấp hành hình phạt này là do chính sách hình sự mới nhân đạo của
Nhà nước ta, chứ không phải oan sai do cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
6. Trong quá
trình thực hiện nếu có vướng mắc cần phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung thì
đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có sự giải thích hoặc hướng dẫn
bổ sung kịp thời.
Nơi nhận:
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban pháp luật của Quốc hội (để giám sát);
- Uỷ ban tư pháp của Quốc hội (để giám sát);
- Văn phòng Trung ương Đảng (để báo cáo);
- Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Bộ Tư pháp(để phối hợp);
- Bộ Công an(để phối hợp);
- Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC (để thực hiện);
- Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
|
TM.
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Trương Hoà Bình
|