1. Tranh chấp
hợp đồng dân sự có đặt cọc
Theo quy định tại Điều
130 Bộ luật Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) thì thoả thuận về đặt cọc là
một giao dịch dân sự; do đó, việc đặt cọc chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều
kiện quy định tại Điều 131 BLDS và phải được lập thành văn
bản (có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính).
Trong trường hợp có tranh chấp về
đặt cọc mà các bên không có thoả thuận khác về việc xử lý đặt cọc, thì việc xử
lý được thực hiện như sau:
a. Trong trường hợp đặt cọc chỉ
để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện
hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc
thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc
không được thực hiện hoặc bị vô hiệu, thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 363 BLDS.
b. Trong trường hợp đặt cọc chỉ
để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng
mới có sự vi phạm làm cho hợp đồng không được thực hiện hoặc mới phát hiện hợp
đồng bị vô hiệu thì không phạt cọc. Việc giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp
đồng hoặc xử lý hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo thủ tục chung.
c. Trong trường hợp các bên có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định điều kiện nếu đặt cọc bị vô hiệu là hợp
đồng cũng bị vô hiệu, thì hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu khi đặt cọc đó bị vô
hiệu. Việc xử lý đặt cọc bị vô hiệu và hợp đồng bị vô hiệu được thực hiện theo
quy định tại Điều 146 BLDS.
Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng
mua bán nhà. Khi giao kết hai bên thoả thuận B (bên mua) phải giao cho A (bên
bán) một chiếc xe ô tô thể thao để đặt cọc bảo đảm cho việc giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán nhà ở với điều kiện khi hợp đồng mua bán nhà ở được giao
kết và thực hiện thì chiếc xe ô tô thể thao đó phải được trừ vào tiền mua bán
nhà và nếu A không nhận được chiếc xe ô tô đó do việc đặt cọc bị vô hiệu thì
hợp đồng cũng bị vô hiệu.
Khi bắt đầu thực hiện hợp đồng
thì phát hiện chiếc xe ô tô đó là của ông C (bố B) và ông C không đồng ý cho B
lấy chiếc xe ô tô đó trừ vào tiền mua nhà, có nghĩa là việc đặt cọc bị vô hiệu
và do đó trong trường hợp này hợp đồng mua bán nhà cũng bị vô hiệu.
d. Trong các trường hợp được hướng
dẫn tại các điểm a và c mục 1 này, nếu cả hai bên cùng có lỗi hoặc trong trường
hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì không phạt cọc.
2. Tranh chấp
hợp đồng mua bán nhà ở
2.1. Điều kiện để công nhận hợp
đồng mua bán nhà ở
Theo quy định tại Điều
131 và Điều 443 BLDS thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng mua bán nhà ở khi hợp
đồng mua bán nhà ở có đủ bốn điều kiện sau đây:
a. Những người tham gia giao kết
hợp đồng mua bán nhà ở phải có năng lực hành vi dân sự;
b. Mục đích và nội dung của hợp
đồng mua bán nhà ở không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
c. Những người tham gia giao kết
hợp đồng mua bán nhà ở hoàn toàn tự nguyện;
d. Hợp đồng mua bán nhà ở phải
được lập thành văn bản, có chứng nhận của Công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban
nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực
tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Cần chú ý là đối với các tranh
chấp giao dịch dân sự về nhà ở nói chung (trong đó có hợp đồng mua bán nhà ở)
được xác lập trước ngày 01/7/1991 thì áp dụng Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10
ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội "về giao dịch dân sự về nhà ở
được xác lập trước ngày 01/7/1991" và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Nghị quyết này
để giải quyết.
2.2. Giải quyết một số trường hợp
cụ thể của hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu
a. Hợp đồng mua bán nhà ở vi phạm
các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm a, b và c tiểu mục 2.1 mục 2 này.
Khi hợp đồng mua bán nhà ở vi phạm
một trong các điều kiện trên, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định
của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 BLDS để
tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng mua bán
nhà ở vô hiệu.
b. Hợp đồng mua bán nhà ở vi phạm
điều kiện được hướng dẫn tại điểm d tiểu mục 2.1 mục 2 này.
Đối với hợp đồng mua bán nhà ở
vô hiệu do không tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng, khi có tranh
chấp và theo yêu cầu của một hoặc các bên Toà án áp dụng Điều
139 BLDS để ra quyết định buộc một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong thời hạn một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực
hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng. Nếu có một bên đương
sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bên đương sự vắng mặt nhận được quyết
định của Toà án.
Trong trường hợp có sự kiện bất
khả kháng hoặc có trở ngại khách quan, thì thời gian có sự kiện bất khả kháng
hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó. Quá thời hạn
một tháng mà họ không đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các thủ
tục để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức
vì không thực hiện theo quyết định của Toà án thì phải bồi thường thiệt hại
theo quy định tại Điều 146 BLDS.
2.3. Thời hạn yêu cầu Toà án
tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu
Thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố
hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu được quy định tại Điều 145 BLDS.
Tuy nhiên cần lưu ý đối với trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu được quy
định tại các điều từ Điều 140 đến Điều 143 BLDS thì thời
hạn một năm được tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được chứng nhận công
chứng, chứng thực
2.4. Giải quyết hậu quả của hợp
đồng mua bán nhà ở vô hiệu
a. Xác định lỗi
Khi tuyên bố hợp đồng mua bán
nhà ở vô hiệu, thì về nguyên tắc chung khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu Toà án buộc bên mua trả lại nhà ở cho bên bán; bên bán nhận lại nhà ở và
trả lại những gì đã nhận cho bên mua nhà. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 146 BLDS bên có lỗi làm cho hợp đồng mua bán nhà ở
vô hiệu mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia; do đó, việc
xác định lỗi của một hoặc các bên như sau:
a.1. Một bên bị coi là có lỗi nếu
bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà
ở hoặc bán nhà ở là hợp pháp.
Ví dụ về trường hợp bên bán bị
coi là có lỗi: Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng là bên
bán có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc có hành vi gian dối để được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử
dụng đất ở và sử dụng các giấy tờ này làm bằng chứng để cho bên mua tin và giao
kết hợp đồng mua bán nhà ở đó.
Ví dụ về trường hợp bên mua bị
coi là có lỗi: Bên mua bị coi là có lỗi nếu có hành vi gian dối làm cho bên bán
tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở hữu
của bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua.
a.2. Đối với hợp đồng mua bán
nhà ở vô hiệu theo quy định tại các điều 140, 141, 142 và 143
BLDS, thì áp dụng quy định của điều luật tương ứng để xác định lỗi của bên
bán hoặc lỗi của bên mua.
a.3. Trường hợp hợp đồng mua bán
nhà ở vô hiệu do lỗi của hai bên, trừ trường hợp quy định tại Điều
137 BLDS, thì Toà án phải xác định mức độ lỗi của mỗi bên để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên.
b. Xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại
b.1. Nếu các bên đều có lỗi
tương đương nhau làm cho hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, thì mỗi bên chịu trách
nhiệm 1/2 giá trị thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ không tương đương nhau, thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên.
b.2. Nếu bên mua có lỗi làm cho
hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, thì bên bán chỉ phải trả cho bên mua số tiền đã
nhận và bên mua phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận); nếu bên mua có lỗi
làm cho nhà ở bị hư hỏng hoặc tháo dỡ thì phải bồi thường khoản tiền do bên bán
phải bỏ ra để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu do bên mua làm hư hỏng
hoặc tháo dỡ nhà. Trong trường hợp giá nhà giảm mà bên bán bị thiệt hại thì bên
mua phải bồi thường cho bên bán khoản tiền chênh lệch giá được xác định theo
cách thức hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 này.
b.3. Nếu bên bán có lỗi làm cho
hợp đồng mua bán nhà ở bị vô hiệu, thì bên bán phải trả cho bên mua số tiền đã
nhận và bên mua phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận). Trong trường hợp
có sự chênh lệch giá nhà mà bên mua bị thiệt hại thì bên bán phải bồi thường
khoản tiền chênh lệch giá được xác định theo cách thức hướng dẫn tại điểm c
tiểu mục 2.4 mục 2 này.
Khoản tiền chênh lệch được tính
theo tỷ lệ số tiền bên mua nhà đã trả.
b.4. Nếu trong thời gian quản
lý, bên mua đã cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị
quyền sử dụng đất thì khi nhận lại nhà bên bán phải thanh toán cho bên mua phần
giá trị tăng thêm đó, trừ trường hợp bên bán có phản đối hoặc cơ quan có thẩm
quyền không cho phép mà bên mua vẫn cố tình cải tạo, sửa chữa.
c. Xác định thiệt hại
c.1. Khi tuyên bố hợp đồng mua
bán nhà ở vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:
Khoản tiền mà bên bán phải bỏ ra
để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của nhà ở do bên mua đã tháo dỡ
hoặc làm hư hỏng; khoản tiền mà bên mua đã đầu tư để cải tạo, sửa chữa nhà làm
tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất. Trong trường hợp hợp
đồng mua bán nhà ở không có đặt cọc và các bên không có thoả thuận khác về việc
áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 BLDS để bảo đảm thực hiện hợp đồng, thì thiệt hại còn
bao gồm khoản tiền chênh lệch giữa giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng
đất do các bên thoả thuận với giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất
tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.
c.2. Để xác định đúng các thiệt
hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử
dụng đất và xác định thiệt hại về nhà ở như sau:
Nếu các đương sự không thoả thuận
được về giá nhà, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu
cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá.
Giá nhà và giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển
nhượng tại địa phương nơi có nhà đất đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất
vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên, trong trường hợp Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các Trung tâm giao
dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng
đất tại địa phương, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy
định hoặc giá niêm yết của các Trung tâm giao dịch để xác định giá nhà gắn liền
với giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập Hội đồng định
giá.
c.3. Trách nhiệm chịu chi phí
cho việc định giá như sau:
- Các đương sự phải chịu chi phí
cho việc định giá tương ứng với phần nghĩa vụ của họ.
- Trường hợp đương sự có yêu cầu
định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí định giá, Toà án
sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.
3. Giải quyết
tranh chấp chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
3.1. Chuyển nhượng hợp đồng thuê
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là việc người có hợp đồng thuê nhà ở của Nhà nước
do không có nhu cầu sử dụng hoặc vì lý do nào đó nên đã chuyển nhượng lại hợp
đồng thuê diện tích nhà ở đó cho người khác. Người được thuê lại nhà ở đó phải
trả cho người chuyển nhượng một khoản tiền và được làm thủ tục đăng ký và ký
hợp đồng thuê diện tích nhà ở đó với cơ quan quản lý nhà đất.
3.2. Khi áp dụng Điều
131, khoản 1 Điều 200 và khoản 3 Điều 494 BLDS để giải quyết loại tranh chấp
này Toà án cần lưu ý:
a. Việc chuyển nhượng hợp đồng
thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước phải được lập thành văn bản.
b. Nếu việc chuyển nhượng hợp đồng
thuê nhà ở được cơ quan quản lý nhà đất cho phép chuyển nhượng bằng văn bản
(tại thời điểm ký kết hợp đồng, trước phiên toà hoặc tại phiên toà) thì Toà án
công nhận hợp đồng và buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo thoả thuận.
c. Nếu việc chuyển nhượng hợp đồng
thuê nhà ở không được cơ quan quản lý nhà đất cho phép bằng văn bản (tại thời
điểm ký kết hợp đồng, trước phiên toà hoặc tại phiên toà) thì Toà án tuyên hợp
đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo thủ tục chung.
d. Khi giải quyết loại tranh chấp
này, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất
tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1. Thừa kế
trong trường hợp chưa có đăng ký kết hôn
a. Trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trước ngày 03/01/1987, nếu có một bên chết trước, thì bên vợ hoặc
chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp
luật về thừa kế.
b. Trường hợp
nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong
thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến
trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc
vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật
về thừa kế. Trong trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà
có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi
chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ từng trường hợp mà
Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì
không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải
quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
2. Ly hôn
có yếu tố nước ngoài
2.1. Đối với trường hợp công dân
Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã đi ra nước ngoài
Khi giải quyết loại việc này, cần
phân biệt như sau:
a. Đối với những trường hợp uỷ
thác tư pháp không có kết quả vì lý do bị đơn sống lưu vong, không có cơ quan
nào quản lý, không có địa chỉ rõ ràng nên không thể liên hệ với họ được, thì Toà
án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo
cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc tài liệu cần thiết cho việc giải quyết
vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu
đó để xét xử theo thủ tục chung.
b. Trường hợp bên đương sự là bị
đơn đang ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên
nguyên đơn ở trong nước không thể biết địa chỉ, tin tức của họ, thì giải quyết
như sau:
- Nếu bị đơn ở nước ngoài không
có địa chỉ, không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa
chỉ, tin tức gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết
vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có
quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất
tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố
chết.
- Nếu thông qua thân nhân của họ
mà biết rằng họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của
họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực
hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà
án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ
chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai
mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho
Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết,
thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét
xử Toà án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định
để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai
bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú
cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.
2.2. Đối với trường hợp các bên
đều là công dân Việt Nam kết hôn ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài, nay họ
về Việt Nam xin ly hôn.
Khi giải quyết loại việc này cần
phân biệt như sau:
a. Đối với trường hợp các bên có
giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước đã ký kết với Việt
Nam Hiệp định tương trợ tư pháp hoặc đã được hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Nghị định số
83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch (sau đây gọi tắt
là Nghị định số 83) thì việc kết hôn của đương sự cần được ghi chú vào sổ đăng
ký; do đó, nếu việc kết hôn của đương sự chưa được ghi chú vào sổ đăng ký thì
Toà án yêu cầu đương sự làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký theo quy định của
Nghị định số 83 rồi mới thụ lý giải quyết việc ly hôn. Trong trường hợp đương
sự không thực hiện yêu cầu của Toà án làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký mà vẫn
có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án không công nhận họ là vợ chồng; nếu có
yêu cầu Toà án giải quyết về con cái, tài sản thì Toà án giải quyết theo thủ
tục chung.
b. Đối với trường hợp các bên có
giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước chưa ký kết với Việt
Nam Hiệp định tương trợ tư pháp cấp và cũng chưa được hợp pháp hoá lãnh sự theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Nghị định số
83 thì trong trường hợp này giấy đăng ký kết hôn phải được hợp pháp hoá lãnh sự
và việc kết hôn cần được ghi chú vào sổ đăng ký; do đó, nếu giấy đăng ký kết
hôn của họ chưa được hợp pháp hoá lãnh sự, việc kết hôn của họ chưa được ghi
chú vào sổ đăng ký, thì Toà án yêu cầu đương sự hoàn tất thủ tục hợp pháp hoá
lãnh sự và làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký rồi mới thụ lý giải quyết. Trong
trường hợp đương sự không thực hiện các thủ tục đó mà vẫn có yêu cầu Toà án
giải quyết, thì Toà án không công nhận họ là vợ chồng; nếu có yêu cầu Toà án
giải quyết về con cái, tài sản thì Toà án giải quyết theo thủ tục chung.
2.3. Đối với trường hợp người Việt
Nam ở nước ngoài kết hôn với người nước ngoài mà việc kết hôn đó được công nhận
tại Việt Nam, nay người Việt Nam về nước và người nước ngoài xin ly hôn
a. Trong trường hợp người nước
ngoài đang ở nước ngoài xin ly hôn người Việt Nam mà người Việt Nam còn quốc
tịch Việt Nam và đang cư trú tại Việt Nam, thì Toà án thụ lý giải quyết nhưng
việc áp dụng pháp luật để giải quyết cần phân biệt như sau:
- Nếu người nước ngoài là công
dân của nước mà Việt Nam đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước đó mà trong
Hiệp định tương trợ tư pháp đó có quy định khác với Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì áp dụng quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp để giải quyết;
nếu không có quy định khác thì áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để
giải quyết.
- Nếu người nước ngoài là công
dân của nước mà Việt Nam chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước đó thì áp
dụng quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
- Việc giải quyết tài sản là bất
động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản
đó.
b. Trong trường hợp người Việt
Nam không còn quốc tịch Việt Nam mặc dù vẫn đang cư trú tại Việt Nam thì Toà án
không thụ lý giải quyết vì việc này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án.
2.4. Đối với trường hợp công dân
Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài
Công dân Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài, nhưng người nước ngoài đã về nước mà không còn liên hệ với
công dân Việt Nam, nay công dân Việt Nam xin ly hôn, thì Toà án thụ lý giải
quyết.
Theo quy định tại Điều
18 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có nghĩa vụ chăm sóc
giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình hạnh phúc; do đó, nếu người nước ngoài bỏ
về nước không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo quy định, thời gian không có tin
tức cho vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam từ một năm trở lên mà đương sự, thân
nhân của họ và các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở
nước họ, các cơ quan có thẩm quyền mà người đó là công dân), sau khi đã điều
tra xác minh địa chỉ của họ theo thủ tục xuất nhập cảnh, địa chỉ mà họ khai khi
đăng ký kết hôn theo giấy đăng ký kết hôn... nhưng cũng không biết tin tức, địa
chỉ của họ, thì được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ và xử cho ly
hôn.