Nghị định 338-HĐBT năm 1991 thi hành Luật phổ cập giáo dục tiểu học do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 338-HĐBT
Ngày ban hành 26/10/1991
Ngày có hiệu lực 26/10/1991
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Phan Văn Khải
Lĩnh vực Giáo dục

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 338-HĐBT

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 1991

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 338-HĐBT NGàY 26-10-1991 VỀ THI HÀNH LUẬT PHỔ CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC 

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG 

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ Luật phổ cập giáo dục tiểu học ngày 12 tháng 8 năm 1991;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Chương trình và nội dung giáo dục tiểu học là của Nhà nước, được quy định thống nhất trong cả nước. Nghiêm cấm việc giáo dục trái với chương trình, nội dung của Nhà nước.

Điều 2.

Phổ cập giáo dục tiểu học là sự nghiệp và trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội.

Nhà nước có trách nhiệm dành ngân sách thích đáng cho giáo dục tiểu học.

Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, gia đình và công dân có trách nhiệm:

1 - Xây dựng quỹ giáo dục quốc gia;

2 - Xây dựng và bảo quản trường, lớp;

3 - Kết hợp với ngành giáo dục trong việc giáo dục tiểu học cho trẻ em;

4 - Mọi hành vi cản trở, thiếu trách nhiệm, xâm phạm việc giáo dục tiểu học cho trẻ em đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

Điều 3. Các dân tộc thiểu số đồng thời với tiếng Việt có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình để thực hiện giáo dục tiểu học. Trẻ em phải nắm vững tiếng Việt để có khả năng giao tiếp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Điều 4.

Trẻ em 6 tuổi, tính theo năm, không tính theo tháng, phải được học lớp 1 ngay từ đầu năm học.

Trẻ em không được đi học muộn hơn 11 tuổi, trừ những trường hợp dười đây:

a) Không đủ điều kiện sức khoẻ, phát triển chậm về thể lực, trí lực hoặc ốm đau đột xuất được tổ chức y tế xác nhận;

b) Do hoàn cảnh gia đình có khó khăn đặc biệt được chính quyền cơ sở xác nhận;

c) Cư trú ở những vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng hải đảo và các vùng có khó khăn.

Điều 5.

1. Trẻ em có thể lực tốt và phát triển sớm về trí tuệ được vào học lớp 1 trước 6 tuổi nếu Hội đồng sư phạm nhà trường đề nghị và phòng giáo dục quận, huyện, thị xã chấp nhận.

2. Học sinh tiểu học đựoc vượt lớp sau khi đã được Hội đồng sư phạm nhà trường kiểm tra, cho phép và được phòng giáo dục quận, huyện, thị xã chấp nhận.

Điều 6.

1. Học sinh phải đạt trình độ giáo dục tiểu học trước tuổi 15 được đánh giá thông qua một kỳ thi tốt nghiệp, trừ những trường hợp nêu trong các điểm a, b, c, khoản 2 Điều 4 Nghị định này;

2. Học sinh học ở bất cứ loại hình trường, lớp tiểu học nào đều có quyền dự thi tốt nghiệp theo quy chế thi do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành.

Điều 7. Trong trường hợp trẻ em không hoàn thành giáo dục tiểu học trước tuổi 15 thì chính quyền cơ sở có trách nhiệm xem xét nguyên nhân và đề xuất áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt buộc cha mẹ, người đỡ đầu của trẻ em tạo điều kiện cho các em hoàn thành giáo dục tiểu học.

[...]