Nghị định 236-HĐBT năm 1985 về việc sửa đổi chế độ, chính sách thương binh và xã hội do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành

Số hiệu 236-HĐBT
Ngày ban hành 18/09/1985
Ngày có hiệu lực 01/09/1985
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Tố Hữu
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Quyền dân sự,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 236-HĐBT

Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 1985

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 236-HĐBT NGÀY 18-9-1985 VỀ BỔ SUNG, SỬA ĐỔI MỘT SỐ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH VỀ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Căn cứ nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V);
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng ngày 7-9-1985;
Tiếp theo nghị định số 235-HĐBT ngày 18-9-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang,

NGHỊ ĐỊNH :

VỀ LƯƠNG HƯU

Điều 1.- Nam công nhân viên chức đủ 60 tuổi (nếu là quân nhân thì đủ 55 tuổi) và có đủ 30 năm công tác, nữ công nhân, viên chức đủ 55 tuổi (nếu là quân nhân thì đủ 50 tuổi) và có đủ 25 năm công tác thì được hưởng lương hưu.

Tuỳ theo điều kiện lao động và chiến đấu, thời gian công tác được quy đổi theo hệ số; một năm công tác được tính là 1 năm, hoặc 1 năm 2 tháng, hoặc 1 năm 4 tháng, hoặc 1 năm 6 tháng.

Điều 2.- Công nhân, viên chức và quân nhân làm các nghề nặng nhọc, độc hại, hoặc làm việc ở những vùng có nhiều khó khăn, gian khổ, hoặc vì bị thương, bị tai nạn, ốm đau mà mất sức lao động, đã có đủ điều kiện về thời gian công tác, nhưng chưa đủ điều kiện về tuổi đời thì cũng được hưởng lương hưu.

Điều 3.- Lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác, đối với nữ có đủ 25 năm công tác, được tính bằng 75% lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có); ngoài ra thêm mỗi năm công tác được thêm 1%, tối đa không quá 95% lương chính và phụ cấp thâm niên.

Điều 4.- Cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng Tám năm 1945 thuộc diện thi hành quyết định số 128-HĐBT ngày 8-10-1984 của Hội đồng Bộ trưởng, cứ mỗi thâm niên hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945 được phụ cấp ưu đãi hàng tháng 20 đồng.

Cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945 nhưng lâu nay không có lương, thì được hưởng sinh hoạt phí hàng tháng 220 đồng nếu hoạt động từ năm 1935 trở về trước được hưởng sinh hoạt phí hàng tháng 160 đồng nếu hoạt động từ năm 1936 về sau.

Anh hùng lao động và anh hùng lực lượng vũ trang nghỉ hưu hoặc nghỉ mất sức được hưởng phụ cấp ưu đãi hàng tháng bằng 5% tiền lương và phụ cấp thâm niên (nếu có).

Điều 5. - Công nhân, viên chức và quân nhân đã nghỉ hưu trước ngày ban hành nghị định này thì căn cứ vào mức lương cũ khi nghỉ hưu chuyển đổi sang mức lương mới cùng thang bậc lương để tính lại lương hưu theo tỷ lệ đang hưởng, thấp nhất cũng được hưởng bằng 60% mức lương tối thiểu mới. Trường hợp thấy có lợi và có đủ điều kiện để tính lại lương hưu theo quy định mới (điều 1 và điều 3 trên đây) thì tính lại để hưởng theo mức ấy.

VỀ TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT

Điều 6.- Thương binh được xếp thương tật theo 4 hạng:

- Hạng 1: mất từ 81% đến 100% sức lao động do thương tật; mất hoàn toàn khả năng lao động, cần có người phục vụ.

- Hạng 2: mất từ 61% đến 80% sức lao động do thương tật: mất phần lớn khả năng lao động, còn tự phục vụ được.

- Hạng 3: Mất từ 41% đến 60% sức lao động do thương tật: mất khả năng lao động ở mức trung bình.

- Hạng 4: Mất từ 21 đến 40% sức lao động do thương tật: giảm nhẹ khả năng lao động.

Bộ Y tế cùng Bộ Thương binh xã hội quy định cụ thể tiêu chuẩn các hạng thương tật mới nói ở trên và việc chuyển đổi từ các hạng cũ sang các hạng mới.

Điều 7.- Thương binh loại A và thương binh loại B được hưởng trợ cấp thương tật hàng tháng tính trên lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có) khi bị thương như sau:

Hạng thương tật

Trợ cấp thương tật khi về gia đình

 

Thương binh loại A

Thương binh Loại B

Hạng 1

100%

80%

Hạng 2

70%

55%

Hạng 3

50%

35%

Hạng 4

20%

15%

Nếu khi bị thương, thương binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí thì trợ cấp thương tật được tính trên mức lương thống nhất là 250 đồng. Công nhân, viên chức trước khi vào bộ đội đã có mức lương cao hơn 250 đồng thì tính theo mức lương ấy.

Thương binh (cả loại A và loại B) đang hưởng lương hoặc lương hưu thì được trợ cấp thương tật bằng 30% mức trợ cấp thương tật khi về gia đình.

Điều 8.- Ngoài trợ cấp thương tật nói ở điều 7, thương binh hạng 1 được nuôi dưỡng ở gia đình, phường xã, còn được phụ cấp hàng tháng 70 đồng cho người phục vụ và được cấp một khoản tiền để mua sắm những phương tiện sinh hoạt cần thiết theo quy định của Bộ Thương binh xã hội.

Thương binh có hành động dũng cảm mà bị thương, khi về gia đình được phụ cấp ưu đãi một lần một khoản tiền bằng 2 tháng lương khi bị thương hoặc 500 đồng nếu thương binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí.

Thương binh hạng 4 về gia đình cư trú ở thành phố, thị xã, nếu đời sống có nhiều khó khăn thì cơ quan thương binh và xã hội xét trợ cấp khó khăn.

[...]