Khuyến nghị về đồng ý kết hôn, độ tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng ký kết hôn, 1965
Số hiệu | Khongso/2018/NQ |
Ngày ban hành | 01/11/1965 |
Ngày có hiệu lực | |
Loại văn bản | Văn bản khác |
Cơ quan ban hành | *** |
Người ký | *** |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
KHUYẾN NGHỊ
VỀ ĐỒNG Ý KẾT HÔN, ĐỘ TUỔI KẾT HÔN TỐI THIỂU VÀ VIỆC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, 1965
(Nghị quyết 2018 (XX) của Đại Hội đồng ngày 1/11/1965).
Đại Hội đồng,
Nhận thấy tổ chức gia đình cần được củng cố vì gia đình là tế bào của xã hội, và rằng nam giới và nữ giới khi đủ tuổi thì có quyền kết hôn và lập nên một gia đình, rằng họ có quyền như nhau đối với hôn nhân và rằng hôn nhân chỉ có thể diễn ra trên cơ sở đồng thuận hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên, phù hợp với Điều 16 của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền,
Chiếu theo nghị quyết số 843 (IX) ngày 17/12/1954 của Đại Hội đồng,
Nhớ thêm Điều 2 của Công ước bổ sung về Bãi bỏ nô lệ, buôn bán nô lệ, và Các thể chế và thông lệ tương tự như Chế độ nô lệ năm 1956, mà có một số điều khoản liên quan tới độ tuổi kết hôn, đồng ý kết hôn và đăng ký kết hôn,
Xét thấy Điều 13, đoạn 1 b, của Hiến chương Liên Hợp Quốc có nói rằng Đại Hội đồng sẽ đưa ra khuyến nghị vì mục đích hỗ trợ hiện thực hóa nhân quyền và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo,
Xét thấy cũng tương tự như vậy, theo Điều 64 của Hiến chương, Ủy ban Kinh tế và xã hội có quyền thu xếp với các thành viên Liên Hợp Quốc để lấy báo cáo về các bước đã tiến hành để làm cho khuyến nghị của ủy ban có hiệu lực, cũng như là cho những kiến nghị về các vấn đề khác nằm trong thẩm quyền của nó do Đại Hội đồng xác lập,
Kiến nghị rằng, mỗi quốc gia cần tiến hành những bước cần thiết, phù hợp với tiến trình hiến pháp cũng như thói quen truyền thống và tôn giáo của mình, để thông qua những biện pháp lập pháp hay những biện pháp khác mà có thể phù hợp, nếu chưa tồn tại một biện pháp nào như thế, để làm cho những nguyên tắc dưới đây có hiệu lực:
Nguyên tắc 1.
1. Không hôn nhân nào có thể có hiệu lực mà không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên, sự đồng ý đó phải được cá nhân mỗi bên tự biểu đạt, sau khi đã công bố trong một khoảng thời gian phù hợp, dưới sự có mặt của cơ quan có thẩm quyền tuyên bố hôn nhân và của người làm chứng, theo luật pháp quy định.
2. Kết hôn theo ủy quyền chỉ được phép khi các cơ quan có thẩm quyền thấy rằng mỗi bên, trước một cơ quan có thẩm quyền và theo cách mà luật pháp có thể miêu tả, đã thể hiện sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của mình trước các nhân chứng, và không hề rút lại sự đồng ý này.
Nguyên tắc 2.
Các nước thành viên phải quy định trong luật về độ tuổi kết hôn tối thiểu, mà trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể dưới 15 tuổi; không hôn nhân nào là hợp pháp nếu người kết hôn nằm dưới độ tuổi này, ngoại trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền cho phép miễn trừ tuổi tác, vì những lý do đặc biệt, vì quyền lợi của hai bên mong muốn thành vợ chồng.
Nguyên tắc 3.
1. Mọi sự kết hôn đều phải đăng ký ở một cơ quan đăng ký phù hợp bởi người có thẩm quyền.
2. Đề nghị mỗi Quốc gia thành viên đưa bản Khuyến nghị về Đồng ý kết hôn, Độ tuổi kết hôn tối thiểu và Đăng ký kết hôn nằm trong nghị quyết này tới các cơ quan có thẩm quyền ban hành luật, hoặc tiến hành hành động khác vào thời điểm khả thi sớm nhất có thể, và nếu có thể, thì không muộn hơn 18 tháng sau khi bản Khuyến nghị này được thông qua;
3. Đề nghị mỗi Quốc gia thành viên phải thông báo lại cho Tổng Thư ký, ngay khi có thể, sau khi thực hiện hành động được nói tới trong đoạn văn số 2 phía trên, về các biện pháp đã tiến hành liên quan tới bản Khuyến nghị hiện thời để đưa nó ra trước cơ quan có thẩm quyền, với chi tiết cụ thể về (các) cơ quan được cho là có thẩm quyền đó;
4. Đề nghị thêm là các quốc gia thành phiên sau 3 năm cần báo cáo với Tổng Thư ký, và sau đó thì cứ 5 năm 1 lần, về luật pháp và thực tiễn áp dụng liên quan đến các vấn đề được đề cập tới trong bản Khuyến nghị này, thể hiện mức độ hiệu lực mà các quốc gia đã trao hay đề xuất trao cho các điều khoản trong bản Khuyến nghị và những sửa đổi (có thể) cần thiết trong việc điều chỉnh hay áp dụng nó;
5. Yêu cầu Tổng Thư ký chuẩn bị một văn bản chứa báo cáo về phương pháp thực hiện ba nguyên tắc cơ bản của bản Khuyến nghị hiện thời nhận được từ các chính phủ cho Ủy ban về Địa vị phụ nữ;
6. Mời Ủy ban về Địa vị phụ nữ thẩm tra báo cáo nhận được từ các Quốc gia thành viên dựa trên bản Khuyến nghị và trên cơ sở đó báo cáo lại cho Ủy ban Kinh tế và Xã hội và đưa ra kiến nghị phù hợp.