Kế hoạch 93/KH-UBND năm 2020 về phát triển kinh tế tập thể tỉnh Cà Mau giai đoạn 2021-2025
Số hiệu | 93/KH-UBND |
Ngày ban hành | 01/09/2020 |
Ngày có hiệu lực | 01/09/2020 |
Loại văn bản | Kế hoạch |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Cà Mau |
Người ký | Lê Văn Sử |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp |
ỦY BAN NHÂN
DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 93/KH-UBND |
Cà Mau, ngày 01 tháng 9 năm 2020 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH CÀ MAU GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
Thực hiện Công văn số 4476/BKHĐT-HTX ngày 14/7/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021 - 2025 và kế hoạch năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai 2021 - 2025 với các nội dung như sau:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ (KTTT, HTX) GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HTX GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
1. Tình hình chung
1.1. Về tổ hợp tác (THT)
Ước thực hiện đến ngày 31/12/2020 toàn tỉnh có 1.178 THT, hoạt động trên các lĩnh vực1.
- Số thành viên THT: có 20.026 thành viên (tăng 28,1% thành viên so với cuối năm 2016).
- Những hạn chế, khó khăn và những vấn đề mới phát sinh của THT:
+ Từ khi Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019 của Chính phủ thay thế cho Nghị định số 151/2007/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của THT, nhận thức về kinh tế hợp tác và trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền các cấp được nâng lên và có nhiều giải pháp, tạo điều kiện cho THT phát triển; sản xuất từng bước chuyển dịch và gắn với thị trường.
+ Việc chuyển biến về nhận thức của một bộ phận không nhỏ người trực tiếp sản xuất theo kinh tế hàng hóa còn chậm, ngành nghề nông thôn phát triển chưa đa dạng phong phú, mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị khó khăn, đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ, khả năng hợp tác, cạnh tranh còn hạn chế.
+ Việc vận dụng các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để đưa vào thực tiễn tạo điều kiện cho THT phát triển còn nhiều khó khăn; trình độ, năng lực quản lý của một số THT còn hạn chế, thiếu tính chủ động.
+ Hoạt động của các THT đã đáp ứng tốt các dịch vụ cơ bản về sản xuất nông nghiệp cho thành viên, hướng dẫn sản xuất theo quy hoạch, sản xuất đúng lịch thời vụ hàng năm, giúp thành viên tăng thu nhập, ổn định cuộc sống. Nhiều THT có xây dựng nội quy, chứng thực hợp đồng hợp tác theo quy định.
1.2. Về hợp tác xã (HTX)
Ước thực hiện đến ngày 31/12/2020, toàn tỉnh có 228 HTX (giảm 3,36% HTX so với cuối năm 2016), hoạt động trên các lĩnh vực2
- Chuyển đổi HTX: Các HTX đã chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012.
- Thành viên HTX: Tổng số thành viên 4.560 người (giảm 20,5% thành viên so cuối năm 2016). Số lao động làm việc thường xuyên khu vực HTX là 5.700 lao động (giảm 32,7% lao động so với cuối năm 2016). Doanh thu bình quân 1 tỷ đồng/HTX/năm (tăng 33,3% so với cuối năm 2016).
- Những chuyển biến:
Cùng với sự phát triển HTX, người dân còn tham gia HTX trên tinh thần tự nguyện, cùng góp vốn, cùng chịu trách nhiệm về hoạt động của HTX. Nhiều HTX có phạm vi hoạt động toàn xã, số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều; đặc biệt các HTX nông nghiệp đã hoạt động gắn với các sản phẩm chủ lực của địa phương (OCOP), thực hiện liên kết chuỗi, nhiều HTX liên kết với các siêu thị, công ty, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường.
Những kết quả trên cho thấy, kinh tế HTX đang phục hồi và phát triển đúng hướng, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vừa khuyến khích kinh tế cộng đồng thành viên HTX, vừa tôn trọng và nâng cao vị thế kinh tế hộ thành viên.
- Những hạn chế khó khăn:
Mặc dù có sự chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả bước đầu, nhưng sự phát triển của khu vực KTTT, HTX vẫn chưa tương xứng với tiềm năng; các cơ chế chính sách được ban hành nhưng chậm được thực hiện; sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương có lúc còn hạn chế; cơ sở vật chất, nguồn vốn và năng lực quản lý của các HTX còn yếu; hoạt động của các HTX còn thiếu gắn bó với nhau, với cộng đồng doanh nghiệp, chưa có sự liên kết hệ thống chặt chẽ cả về kinh tế, xã hội và tổ chức.
Nguyên nhân, do hạn chế về cơ chế, chính sách khi chưa có chiến lược tổng thể cho phát triển kinh tế của khu vực KTTT, HTX. Trình độ lao động, quản lý còn yếu, ít vốn đầu tư công nghệ và chưa liên kết với các doanh nghiệp uy tín để tìm thị trường, bao tiêu sản phẩm... Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ khiến các HTX khó cạnh tranh, tồn tại, phát triển so với các thành phần kinh tế khác.
1.3. Về liên hiệp HTX (LH HTX): Đến thời điểm hiện nay trên địa bàn tỉnh Cà Mau chưa có tổ chức LH HTX.
2. Tình hình phát triển KTTT theo ngành, lĩnh vực
HTX từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; hoạt động ngày càng thực chất hơn, nhiều HTX hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị đem lại hiệu quả thiết thực cho thành viên và HTX. Mô hình chuỗi liên kết phát triển khá trên các ngành hàng chủ lực của tỉnh, tỷ lệ HTX áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao tăng lên rõ rệt.
ỦY BAN NHÂN
DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 93/KH-UBND |
Cà Mau, ngày 01 tháng 9 năm 2020 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH CÀ MAU GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
Thực hiện Công văn số 4476/BKHĐT-HTX ngày 14/7/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021 - 2025 và kế hoạch năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai 2021 - 2025 với các nội dung như sau:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ (KTTT, HTX) GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HTX GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
1. Tình hình chung
1.1. Về tổ hợp tác (THT)
Ước thực hiện đến ngày 31/12/2020 toàn tỉnh có 1.178 THT, hoạt động trên các lĩnh vực1.
- Số thành viên THT: có 20.026 thành viên (tăng 28,1% thành viên so với cuối năm 2016).
- Những hạn chế, khó khăn và những vấn đề mới phát sinh của THT:
+ Từ khi Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019 của Chính phủ thay thế cho Nghị định số 151/2007/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của THT, nhận thức về kinh tế hợp tác và trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền các cấp được nâng lên và có nhiều giải pháp, tạo điều kiện cho THT phát triển; sản xuất từng bước chuyển dịch và gắn với thị trường.
+ Việc chuyển biến về nhận thức của một bộ phận không nhỏ người trực tiếp sản xuất theo kinh tế hàng hóa còn chậm, ngành nghề nông thôn phát triển chưa đa dạng phong phú, mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị khó khăn, đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ, khả năng hợp tác, cạnh tranh còn hạn chế.
+ Việc vận dụng các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để đưa vào thực tiễn tạo điều kiện cho THT phát triển còn nhiều khó khăn; trình độ, năng lực quản lý của một số THT còn hạn chế, thiếu tính chủ động.
+ Hoạt động của các THT đã đáp ứng tốt các dịch vụ cơ bản về sản xuất nông nghiệp cho thành viên, hướng dẫn sản xuất theo quy hoạch, sản xuất đúng lịch thời vụ hàng năm, giúp thành viên tăng thu nhập, ổn định cuộc sống. Nhiều THT có xây dựng nội quy, chứng thực hợp đồng hợp tác theo quy định.
1.2. Về hợp tác xã (HTX)
Ước thực hiện đến ngày 31/12/2020, toàn tỉnh có 228 HTX (giảm 3,36% HTX so với cuối năm 2016), hoạt động trên các lĩnh vực2
- Chuyển đổi HTX: Các HTX đã chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012.
- Thành viên HTX: Tổng số thành viên 4.560 người (giảm 20,5% thành viên so cuối năm 2016). Số lao động làm việc thường xuyên khu vực HTX là 5.700 lao động (giảm 32,7% lao động so với cuối năm 2016). Doanh thu bình quân 1 tỷ đồng/HTX/năm (tăng 33,3% so với cuối năm 2016).
- Những chuyển biến:
Cùng với sự phát triển HTX, người dân còn tham gia HTX trên tinh thần tự nguyện, cùng góp vốn, cùng chịu trách nhiệm về hoạt động của HTX. Nhiều HTX có phạm vi hoạt động toàn xã, số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều; đặc biệt các HTX nông nghiệp đã hoạt động gắn với các sản phẩm chủ lực của địa phương (OCOP), thực hiện liên kết chuỗi, nhiều HTX liên kết với các siêu thị, công ty, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường.
Những kết quả trên cho thấy, kinh tế HTX đang phục hồi và phát triển đúng hướng, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vừa khuyến khích kinh tế cộng đồng thành viên HTX, vừa tôn trọng và nâng cao vị thế kinh tế hộ thành viên.
- Những hạn chế khó khăn:
Mặc dù có sự chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả bước đầu, nhưng sự phát triển của khu vực KTTT, HTX vẫn chưa tương xứng với tiềm năng; các cơ chế chính sách được ban hành nhưng chậm được thực hiện; sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương có lúc còn hạn chế; cơ sở vật chất, nguồn vốn và năng lực quản lý của các HTX còn yếu; hoạt động của các HTX còn thiếu gắn bó với nhau, với cộng đồng doanh nghiệp, chưa có sự liên kết hệ thống chặt chẽ cả về kinh tế, xã hội và tổ chức.
Nguyên nhân, do hạn chế về cơ chế, chính sách khi chưa có chiến lược tổng thể cho phát triển kinh tế của khu vực KTTT, HTX. Trình độ lao động, quản lý còn yếu, ít vốn đầu tư công nghệ và chưa liên kết với các doanh nghiệp uy tín để tìm thị trường, bao tiêu sản phẩm... Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ khiến các HTX khó cạnh tranh, tồn tại, phát triển so với các thành phần kinh tế khác.
1.3. Về liên hiệp HTX (LH HTX): Đến thời điểm hiện nay trên địa bàn tỉnh Cà Mau chưa có tổ chức LH HTX.
2. Tình hình phát triển KTTT theo ngành, lĩnh vực
HTX từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; hoạt động ngày càng thực chất hơn, nhiều HTX hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị đem lại hiệu quả thiết thực cho thành viên và HTX. Mô hình chuỗi liên kết phát triển khá trên các ngành hàng chủ lực của tỉnh, tỷ lệ HTX áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao tăng lên rõ rệt.
a) Lĩnh vực nông nghiệp
- HTX nông nghiệp: đây là những HTX đã được tổ chức lại và thành lập mới theo Luật HTX 2012, phần lớn tổ chức được dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ thành viên, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; có ý thức xây dựng nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, liên kết được với doanh nghiệp, tìm được đầu ra tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho thành viên3.
- HTX thủy sản:
+ Đối với loại hình sản xuất kinh doanh chế biến hàng thủy sản: tập hợp thành viên chủ yếu là nông dân, có vốn điều lệ không lớn, nhưng sản phẩm cung cấp không chỉ tại địa phương mà còn xâm nhập vào thị trường các tỉnh khác4.
+ Đối với loại hình nuôi trồng thủy sản: Hoạt động có hiệu quả và phát triển do sản phẩm làm ra có đăng ký nhãn hiệu, chất lượng đảm bảo có sức cạnh tranh khá mạnh trên thị trường trong và ngoài tỉnh, doanh thu và lợi nhuận bình quân của HTX cao, vừa thu hút lao động tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập ổn định cho lao động thành viên5.
b) Lĩnh vực phi nông nghiệp
- HTX xây dựng: tuy có chủ động, duy trì hoạt động, tạo việc làm, thu nhập cho thành viên; nhưng còn gặp nhiều khó khăn do không đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp, ít nhận được các dự án đầu tư của Nhà nước; có một số HTX tạm ngưng hoạt động do khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật, máy móc trang thiết bị, tay nghề công nhân không đủ năng lực và sức cạnh tranh trong tham gia đấu thầu.
- HTX giao thông vận tải: chủ yếu là dịch vụ vận tải khách đường bộ bằng phương tiện xe buýt, taxi; đáp ứng tốt nhu cầu đi lại của người dân ngày càng tăng nên số lượng đầu xe vận tải hành khách ngày một nhiều, hoạt động tương đối ổn định, góp phần phát triển mạng lưới giao thông công cộng, tạo được nhiều việc làm cho thành viên6.
- HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: thành viên chủ yếu là những hộ ít tư liệu sản xuất, thiếu vốn, vào HTX để được hỗ trợ tạo việc làm ổn định, hoạt động theo ngành nghề truyền thống như: đan đát, hầm than, làm thảm chế biến hàng nông lâm, thủy sản, hàng thủ công mỹ nghệ; dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho thành viên, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động7.
- HTX thương mại, dịch vụ: các HTX kinh doanh hàng thủy hải sản, mua bán vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, kinh doanh xăng dầu tuy giá cả có biến động nhưng có thị trường ổn định nên hoạt động có hiệu quả8.
- HTX vệ sinh môi trường: Hoạt động chủ yếu thu gom rác thải, mua sắm được phương tiện, thiết bị chuyên dùng, hoạt động có hiệu quả, tạo thêm nhiều việc làm cho thành viên9.
c) Quỹ tín dụng nhân dân: hoạt động ổn định và hiệu quả; có hàng ngàn thành viên, vốn nhiều tỉ đồng; cơ sở vật chất tương đối khá, đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn được đào tạo bài bản, làm ăn có hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động vẫn gặp những khó khăn nhất định, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt với các tổ chức tín dụng và giới hạn về địa bàn hoạt động10.
* Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong từng ngành, lĩnh vực:
Tình hình kinh tế hợp tác, HTX đang tiếp tục có bước phát triển đúng hướng, HTX hỗ trợ khá tích cực cho kinh tế hộ thành viên, đáp ứng một phần nhu cầu hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh trong cộng đồng dân cư, nhất là khu vực nông thôn. Ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn là cầu nối tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cộng đồng, góp phần giải quyết việc làm, giảm nghèo, đảm bảo an ninh trật tự, tham gia tích cực phong trào xây dựng nông thôn mới, đồng thời phát huy những mô hình sản xuất kinh doanh mới, hiệu quả kinh tế cao theo mô hình sản xuất lớn hàng hóa, phát huy thế mạnh kinh tế địa phương.
Đa số HTX hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định, có lãi; chú trọng phát triển và huy động nguồn vốn góp của thành viên, hoạt động liên kết hợp tác giữa HTX, THT được mở rộng.
Tuy có chuyển biến nhất định và những điểm sáng, nhưng nhìn chung, KTTT của tỉnh vẫn chưa đạt được mục tiêu tổng thể, HTX chưa thoát khỏi hẳn tình trạng yếu kém kéo dài. Tốc độ tăng trưởng về số lượng và chất lượng từ khi thi hành Luật HTX 2012, nhất là từ năm 2017 đến nay phát triển tích cực hơn, nhưng thu nhập bình quân của thành viên và người lao động ở mức xấp xỉ thu nhập bình quân/đầu người trong tỉnh. Thực tế cho thấy KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh phát triển còn chậm so với mục tiêu đề ra và so với nhiều địa phương trong cả nước, chưa tương xứng với tiền năng, lợi thế của tỉnh. Quy mô HTX còn quá nhỏ (bình quân 17 thành viên/HTX); chưa có mô hình sản xuất hàng hóa có quy mô lớn; chất lượng sản phẩm, dịch vụ chưa ổn định; năng lực cán bộ quản trị, điều hành hoạt động của HTX còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý tài chính, sổ sách hạch toán chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu kinh nghiệm trong liên kết chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nên hiệu quả sản xuất, kinh doanh đạt thấp. Số HTX hoạt động yếu kém còn nhiều. Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KTTT còn nhiều bất cập, thiếu tính đồng bộ, chậm được cụ thể hóa thành chính sách riêng của tỉnh, nguồn lực hỗ trợ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với thực tiễn...
II. KHUNG KHỔ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC KTTT, HTX
1. Khung khổ pháp lý
- Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày 29/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của HTX, thành lập mới HTX, tổ chức lại hoạt động của HTX theo Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020.
- Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 22/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường công tác triển khai thi hành Luật HTX 2012.
- Quyết định số 510/QĐ-LMHTXVN ngày 25/5/2018 của Liên minh HTX Việt Nam về việc Ban hành Chương trình hành động thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển 15.000 HTX, Liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020”.
- Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT ngày 08/4/2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký HTX và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của HTX.
- Thông tư số 01/2020/TT-BKHĐT ngày 19/02/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn phân loại và đánh giá HTX.
- Kết luận số 70-KL/TW ngày 09/3/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT.
- Công văn số 1993/UBND-KT ngày 31/3/2016 của UBND tỉnh về tiếp tục nâng cao hiệu quả phát triển KTTT.
- Công văn số 3795/UBND-KT ngày 10/6/2016 của UBND tỉnh về việc tập trung chỉ đạo triển khai công tác chuyển tiếp, đăng ký lại HTX.
- Công văn số 752/UBND-KT ngày 25/01/2017 của UBND tỉnh về việc thực hiện một số nhiệm vụ về KTTT.
- Công văn số 1737/UBND-KT ngày 09/3/2017 của UBND tỉnh về việc tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên lĩnh vực KTTT.
- Kế hoạch số 22/KH-UBND ngày 28/3/2017 của UBND tỉnh triển khai thực hiện Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 21/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020” trên địa bàn tỉnh.
- Quyết định số 1788/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 của UBND tỉnh Cà Mau thành lập Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT.
- Quyết định số 43/2018/QĐ-UBND ngày 19/12/2018 của UBND về ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong hỗ trợ hoạt động KTTT trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
- Kế hoạch số 80/KH-UBND ngày 26/6/2019 của UBND tỉnh Cà Mau triển khai thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển 15.000 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
- Kế hoạch số 133/KH-UBND ngày 15/10/2019 của UBND tỉnh về Kế hoạch Phát triển KTTT tỉnh Cà Mau năm 2020.
2. Tình hình triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTX
2.1. Chính sách hỗ trợ chung
- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Hằng năm, thực hiện công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về KTTT cho đối tượng là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, có 55 lớp với 4.764 người tham gia; mở 23 lớp cán bộ quản lý HTX, với 1.104 lượt người tham dự; mở 01 lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về KTTT cấp huyện và cấp tỉnh, với 41 lượt người tham dự; tổ chức 08 chuyến khảo sát cho 324 lượt người tham dự.
Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 1231/BNN-KTHT ngày 09/4/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt Kế hoạch thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX nông nghiệp giai đoạn 2018 - 2020, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai đưa được 08 cán bộ trẻ có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc tại 08/15HTX, tổng kinh phí hỗ trợ 306.468.400 triệu đồng (năm 2018 triển khai đưa 06 cán bộ trẻ có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc tại 06 HTX, tổng kinh phí hỗ trợ 68.800.000 đồng/4 tháng; năm 2019 tiếp tục hỗ trợ cho 06 HTX của năm 2018 và xét thêm cho 02 HTX mới, kinh phí giải ngân 237.668.400 đông).
- Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Từ năm 2018, thực hiện Kết luận của Thủ tướng Chính phủ cho phép Liên minh HTX Việt Nam tổ chức hội chợ thường niên cho các sản phẩn thuộc khu vực KTTT, hằng năm tỉnh hỗ trợ 10 HTX tham gia Hội chợ xúc tiến thương mại thường niên, với kinh phí hơn 200 triệu/năm. Qua các chương trình kết nối giao thương và các hội chợ, đã giúp các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, HTX của tỉnh củng cố và mở rộng kết nối giao thương tìm được nhiều khách hàng, tăng lượng tiêu thụ và nâng cao giá trị hàng hóa. Đồng thời, một số doanh nghiệp các tỉnh, thành phố đã đến tham quan, khảo sát để hợp tác sản xuất và ký kết tiếp nhận một số hàng nông sản của Cà Mau đưa vào thị trường tiêu thụ trong cả nước.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay là phần lớn các mặt hàng nông sản do HTX sản xuất chưa đảm bảo quy mô về mặt số lượng và chưa được chứng nhận về mặt chất lượng, kể cả một số mặt hàng chủ lực của tỉnh như lúa gạo, tôm, cua..., thành viên HTX cũng như nông dân chưa thật sự có ý thức và quyết tâm áp dụng các quy trình sản xuất nông sản theo các tiêu chuẩn, chứng nhận trong nước, khu vực và quốc tế, gây khó khăn trong việc tổ chức đưa hàng hóa tham gia hội chợ và xúc tiến thương mại, thương mại điện tử.
- Chính sách ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới
Trung tâm chuyển giao các ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật của tỉnh đã tổ chức được 42 lớp có 1.732 người dự với kinh phí 1,7 tỷ đồng để tập huấn, hội thảo, hướng dẫn về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; đồng thời, triển khai các mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, cung cấp các loại phân bón, con giống, cây giống mới có năng suất, chất lượng cao. Thời gian qua, đã có 25 HTX được tiếp nhận 49 máy công cụ chuyên dùng để sản xuất, trị giá 1,5 tỷ đồng; đã hỗ trợ công nhận nhãn hiệu tập thể cho 04 HTX11; hỗ trợ 09 máy suốt lúa (cho 03 HTX, 06 THT), 06 máy gặt đập liên hợp (cho 01 HTX và 05 THT), tổng kinh phí 646,6 triệu đồng.
Bên cạnh đó, Liên minh HTX Việt Nam cũng hỗ trợ cho 02 HTX xây dựng chuỗi giá trị trên địa bàn tỉnh với tổng kinh phí là 466.907.000đ12.
- Chính sách tiếp cận vốn và Quỹ hỗ trợ phát triển HTX
Quỹ hỗ trợ phát triển HTX đi vào hoạt động từ cuối năm 2009, đến nay vốn điều lệ từ ngân sách tỉnh cấp là 15.500 triệu đồng; vốn từ thành viên đóng góp 330,5 triệu đồng. Hiện nay Quỹ đã hỗ trợ cho 86 dự án với tổng dư nợ là 13.926,5 triệu đồng (bình quân 161,9 triệu đồng/dự án). Qua 6 năm từ năm 2013-2019 đến nay đã giải ngân 314 lượt dự án/trên 49 tỷ đồng, bình quân 156,5 triệu đồng/dự án.
Trong điều kiện HTX khó tiếp cận được nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại, nhiều HTX được vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX đã góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn, giúp HTX duy trì, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm và thu nhập cho hàng ngàn thành viên và người lao động trong HTX.
Tuy nhiên, đã có trên 50% dự án đã quá hạn hợp đồng vay, đã xử lý 13 chủ dự án vi phạm Điều lệ Quỹ bằng biện pháp pháp lý với Tòa án với số nợ gốc 1,611 tỷ đồng, nhưng việc thi hành án gặp khó khăn và kết quả rất ít.
- Chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Các cấp ủy, chính quyền và các ngành chức năng tạo điều kiện thuận lợi cho HTX, THT tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội nhất là các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững; chương trình về tái cơ cấu nông nghiệp, tham gia vào chuỗi giá trị các sản phẩm chủ lực của tỉnh như: lúa, gạo; tôm, cua; phát triển kinh tế rừng, bảo vệ môi trường.
Có 13 HTX nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất: 08 HTX ứng dụng công nghệ semi - biofloc vào nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức siêu thâm canh, 04 HTX ứng dụng công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh 02 giai đoạn và 01 HTX áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất dưa hấu. Trong đó, HTX ứng dụng công nghệ vào nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức siêu thâm canh ở mức độ thử nghiệm chưa thực hiện được theo quy mô lớn, diện tích nuôi tôm từ 36 - 52ha/HTX, thành viên tham gia từ 32 - 36 người, năng suất bình quân trên 22 tấn/vụ/ha, cá biệt đạt trên 50 tấn/vụ/ha..
- Chính sách thành lập mới HTX, Liên hiệp HTX
Trước năm 2013, mỗi năm ngân sách tỉnh hỗ trợ thành lập mới HTX khoảng 100 triệu đồng, hỗ trợ bình quân 5 triệu/HTX. Từ năm 2014 đến 2017 tỉnh không thực hiện chính sách này. Đến năm 2018, Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày 29/12/2016 của Bộ Tài chính được ban hành, việc hỗ trợ thành lập mới được tiếp tục thực hiện và hàng năm tỉnh cấp bình quân khoảng 200 triệu để hỗ trợ cho các HTX thành lập mới, bình quân mức hỗ trợ 7 triệu đồng/HTX.
Bên cạnh đó, các HTX đăng ký ngành nghề nuôi trồng thủy sản được miễn 100% thuế theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ và các loại thuế khác về ưu đãi lệ phí đăng ký HTX theo quy định của pháp luật hiện hành.
2.2. Chính sách hỗ trợ ưu đãi đối với HTX nông nghiệp
- Chính sách hỗ trợ chế biến sản phẩm
Năm 2019, tỉnh cấp kinh phí hỗ trợ 180 triệu đồng để thực hiện hỗ trợ tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm, bao bì nhãn hiệu hàng hóa sản phẩm tiêu biểu thuộc lĩnh vực kinh tế hợp tác, HTX. Đã chi hỗ trợ cho 07 HTX, với tổng kinh phí hỗ trợ gần 100 triệu đồng.
Năm 2020, tỉnh cấp kinh phí hỗ trợ 180 triệu đồng để thực hiện hỗ trợ tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm, bao bì nhãn hiệu hàng hóa sản phẩm tiêu biểu thuộc lĩnh vực kinh tế hợp tác, HTX.
3. Công tác quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX
- Công tác thành lập và kiện toàn bộ máy quản lý, bố trí cán bộ và thực hiện phân công quản lý nhà nước về KTTT ở các cấp tỉnh, huyện và xã
Thực hiện Thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 11/12/2015 giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nội vụ; UBND tỉnh Cà Mau ban hành Quyết định số 88/2019/QĐ-UBND ngày 18/01/2019 về việc sắp xếp các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Trên cơ sở đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã giao Phòng Đăng ký kinh doanh quản lý nhà nước về KTTT, HTX cấp tỉnh.
Đối với bộ máy và cán bộ của Sở Nông nghiệp & PTNT đã giao cho Chi cục phát triển nông thôn phụ trách lĩnh vực KTTT, HTX thuộc lĩnh vực nông nghiệp và các Sở chuyên ngành khác đều có phân công công chức, viên chức kiêm nhiệm thực hiện công tác quản lý nhà nước về KTTT, HTX.
Đối với cấp huyện, giao cho 01 Phó Trưởng phòng và 01 chuyên viên tham mưu giúp việc của Phòng Tài chính - Kế hoạch quản lý nhà nước về KTTT, HTX trên địa bàn.
Đối với cấp xã, đều có phân công cán bộ kiêm nhiệm tham mưu giúp việc cho UBND cấp xã quản lý về KTTT, HTX trên địa bàn xã. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện cụ thể có thể phân công cán bộ thống kê; cán bộ nông nghiệp hoặc cán bộ khuyến ngư khuyến nông phụ trách.
Nhìn chung, cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về HTX là kiêm nhiệm và chưa được đào tạo về chuyên môn, chưa có chức danh theo đề án vị trí việc làm. Công tác hậu kiểm sau thành lập bị buông lỏng, chưa xử lý theo quy định các trường hợp vi phạm Luật HTX 2012 như: HTX không có người làm kế toán, không mở sổ sách kế toán, không huy động đủ vốn điều lệ theo quy định,...
- Công tác quản lý, đăng ký thành lập, đăng ký lại, đăng ký bổ sung, chia tách, sáp nhập, giải thể; công tác tư vấn chuyên ngành cho các đơn vị KTTT trên địa bàn
Sở Kế hoạch và Đầu tư là đơn vị đầu mối thực hiện công tác quản lý, tổ chức thực hiện việc chứng nhận đăng ký thành lập Liên hiệp HTX, Quỹ tín dụng nhân dân; Phòng Tài chính - Kế hoạch cấp huyện thực hiện việc chứng nhận đăng ký thành lập HTX.
- Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện quản lý nhà nước đối với KTTT; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động của các đơn vị KTTT
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện quản lý nhà nước đối với KTTT trên địa bàn tỉnh còn ít được quan tâm; riêng năm 2020, UBMTTQ Việt Nam tỉnh có kế hoạch kiểm tra, giám sát về công tác quản lý nhà nước về KTTT, HTX tại huyện Thới Bình và HĐND tỉnh có kế hoạch kiểm tra, giám sát một số sở, ngành và UBND huyện.
- Việc thực hiện chế độ báo cáo, tổng kết, đánh giá định kỳ và rút kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với KTTT. Công tác chỉ đạo các HTX, THT tổ chức đại hội thường niên, đại hội nhiệm kỳ
Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hoạt động của HTX theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT ngày 08/4/2019) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chế độ thông tin, báo cáo của cơ quan đăng ký HTX, Liên minh HTX và chế độ báo cáo về tình hình hoạt động của các HTX thời gian qua được chấn chỉnh có chuyển biến tích cực hơn trước.
Việc tổ chức đánh giá HTX theo Thông tư số 01/2020/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Thông tư 09/2017/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang được triển khai thực hiện, tuy nhiên, cách phân loại và đánh giá giữa 2 Thông tư này có sự khác biệt về tiêu chí và cách chấm điểm, nên gặp khó khăn trong thực hiện.
Công tác chỉ đạo các HTX tổ chức đại hội thường niên, đại hội nhiệm kỳ hằng năm được cơ quan quản lý nhà nước về KTTT, HTX và Liên minh HTX tỉnh quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nghiêm túc. Tuy nhiên, các HTX thật sự chưa quan tâm đến công việc này nên việc tổ chức đại hội nhiệm kỳ, đại hội thường niên còn nhiều hạn chế, chưa được thực hiện nghiêm túc.
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng và đơn vị có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ được giao về hỗ trợ hoạt động KTTT trên địa bàn tỉnh
Hàng năm, các đơn vị liên quan có ký kết Kế hoạch thực hiện Chương trình phối hợp với nhau và UBND các huyện, thành phố Cà Mau về thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác, HTX và thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, hàng năm đều có tổ chức sơ, tổng kết tình hình kinh tế hợp tác, HTX và đề ra mục tiêu giải pháp nhiệm vụ của năm tiếp theo.
4. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể và Liên minh HTX Việt Nam đối với phát triển KTTT, HTX
Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trong tỉnh quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về kinh tế tập thể, Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 20/01/2008 của Ban Bí thư về tiếp tục lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, Luật HTX năm 2012, Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX. Qua đó, các tổ chức thành viên, các ban, ngành có liên quan tích cực quan tâm ưu tiên các chương trình hỗ trợ cho HTX, tuyên truyền, vận động, khuyến khích người dân tham gia HTX.
Liên minh HTX tỉnh đóng vai trò nòng cốt và quan trọng trong chủ động nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách và một số nhiệm vụ phát triển KTTT, HTX đối với Tỉnh ủy, UBND tỉnh; chủ trì thực hiện công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của HTX và tham gia một số hoạt động quản lý Nhà nước về HTX: tư vấn thành lập mới; tích cực tham gia xây dựng mô hình HTX sản xuất kinh doanh gắn với chuỗi giá trị có sự tham gia của doanh nghiệp; phát triển các sản phẩm chủ lực, đặc sản của địa phương. Ngoài ra Liên minh HTX tỉnh còn ký kết Chương trình phối hợp hoạt động với 09 UBND cấp huyện, qua đó liên kết, mở rộng hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KTTT, HTX
1. Thành tựu, vị trí, vai trò của KTTT trong phát triển kinh tế - xã hội
- Giai đoạn 2016 - 2020, KTTT với nòng cốt là HTX đã có sự chuyển biến tích cực cả chất và lượng, đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với sự nỗ lực vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Luật HTX 2012 đã và đang tiếp tục được triển khai sâu rộng đến các địa phương và người dân để hình thành và thúc đẩy phong trào HTX phát triển. Doanh thu bình quân của HTX và thu nhập của thành viên và người lao động được cải thiện, tác động tích cực đến kinh tế hộ.
- Cùng với sự gia tăng về số lượng HTX, người dân còn tham gia HTX trên tinh thần tự nguyện, cùng góp vốn, cùng chịu trách nhiệm về hoạt động của HTX. Nhiều HTX có phạm vi hoạt động toàn xã, số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều; đặc biệt các HTX nông nghiệp đã hoạt động gắn với các sản phẩm chủ lực của địa phương (OCOP), thực hiện liên kết chuỗi, nhiều HTX liên kết với các siêu thị, công ty, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường.
Những kết quả trên cho thấy, kinh tế HTX đang phục hồi và phát triển đúng hướng, phù hợp với chủ trương phát triển nên kinh tế nhiều thành phần, vừa khuyến khích kinh tế cộng đồng thành viên HTX, vừa tôn trọng và nâng cao vị thế kinh tế hộ thành viên.
2. Tồn tại, hạn chế
- Phần lớn tổ chức và quy mô hoạt động của HTX còn nhỏ, lẻ, sức cạnh tranh còn thấp, loại hình dịch vụ chưa đáp ứng yêu cầu thực tế của loại hình HTX đa dịch vụ (cung ứng đầu vào, liên kết tiêu thụ đầu ra), nhất là dịch vụ sau thu hoạch. Số lượng thành viên ít, hoạt động đơn lẻ, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh còn thấp, hoạt động ở phạm vi hẹp trong ấp hoặc liên ấp, vốn điều lệ góp thực tế thấp hoặc góp vốn mang tính hình thức, mang lại lợi ích cho thành viên chưa nhiều.
- Trình độ quản lý HTX của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc còn hạn chế trong công tác tổ chức, mở rộng thêm dịch vụ và thu hút nguồn vốn từ việc kết nạp thêm thành viên mới. Một số ít HTX vẫn còn nhận thức chưa đúng về bản chất của HTX.
- Giữa các HTX chưa có sự hợp tác, liên kết ngang, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ cho nhau. Các HTX chưa chú trọng nâng cao giá trị, chất lượng nông sản, hàng hóa, đồng thời quan tâm xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý đối với các sản phẩm, ngành hàng chủ lực.
- Công tác quản lý nhà nước về KTTT, HTX ở một số nơi còn lúng túng, cán bộ quản lý đa số là kiêm nhiệm, chưa sâu sát.
- Một số chính sách được ban hành nhưng còn thiếu nguồn lực nên gây lúng túng trong thực hiện, chủ yếu thực hiện công tác bồi dưỡng, tập huấn...
3. Nguyên nhân
- Còn một số cán bộ, công chức chưa nhận thức rõ về vai trò của KTTT, HTX từ đó dẫn đến hành động can thiệp sâu vào công việc nội bộ của HTX hoặc có trường hợp xem nhẹ, buông lỏng quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX.
- Một vài nơi chưa quan tâm đúng mức việc xây dựng kế hoạch phát triển KTTT, HTX hàng năm; chưa lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của ngành, địa phương.
- Trình độ nhân sự tham gia quản trị HTX còn rất nhiều hạn chế. Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc HTX chưa đủ khả năng định hướng và hành động mang tính chiến lược, đột phá để phát triển, thiếu tính nhạy bén, năng động với thị trường.
- Việc quy định, hướng dẫn cơ chế, chính sách củng cố, nâng chất, hỗ trợ phát triển HTX từ bộ, ngành Trung ương còn chậm triển khai; nguồn lực hỗ trợ phát triển KTTT, HTX còn thấp.
- Một số HTX vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ hỗ trợ từ ngân sách nhà nước do nhận thức chưa đúng về HTX kiểu mới.
- Việc tổ chức Đại hội thường niên của HTX không đúng quy định, từ đó dẫn đến thiếu công khai minh bạch về tài chính, kế toán, kiểm toán.
4. Bài học kinh nghiệm
- Một là, nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể là phải xác định đúng vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quan tâm, lãnh đạo và quản lý của các cấp chính quyền. Bám sát quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa sát với điều kiện thực tế của từng địa phương. Xây dựng và thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cấp, các ngành và các đoàn thể để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho kinh tế tập thể.
- Hai là, phát triển kinh tế tập phải trên cơ sở nắm bắt nhu cầu của xã hội, nhu cầu của sản xuất và người lao động, gắn với việc xác định, nội dung mô hình kinh tế tập thể, mô hình hợp tác xã phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, loại hình sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, kết hợp với nhiệm vụ hỗ trợ kinh tế hộ phát triển và hiệu quả xã hội; tôn trọng và thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.
- Ba là, làm tốt công tác quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể, công tác tư vấn, hướng dẫn hỗ trợ; tập hợp các lực lượng, huy động cả hệ thống chính trị, mọi nguồn lực của toàn xã hội tham gia vào phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã.
- Bốn là, cán bộ có ý nghĩa quyết định đến phong trào và hiệu quả kinh tế tập thể, vì vậy vừa phải khích lệ lòng nhiệt tình, tận tụy, vừa phải đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ, vừa động viên, khen thưởng và có chế độ thù lao hợp lý để ổn định và xây dựng đội ngũ cán bộ hợp tác xã.
- Năm là, Nhà nước phải có những chính sách đồng bộ, mang tính khả thi cao, nhất là chính sách về đào tạo cán bộ (cả cho hợp tác xã và cán bộ quản lý kinh tế hợp tác ở địa phương), đầu tư kết cấu hạ tầng, chính sách về thuế, tín dụng, bao tiêu sản phẩm, ứng dụng khoa học và công nghệ... tạo môi trường pháp lý, điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã hoạt động.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
I. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
1. Tình hình quốc tế
- Kinh tế thế giới ngày càng phát triển, các chuỗi cung ứng toàn cầu tạo sự liên kết chặt chẽ của nền kinh tế thế giới, đồng thời với nó là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Cuộc chiến thương mại giữa 2 nước lớn Mỹ - Trung Quốc và xu hướng xoay trục tìm kiếm đồng minh thương mại mới của Mỹ vừa là cơ hội cũng là thách thức lớn đối với các quốc gia. Tình hình thế giới ngày càng phức tạp và tương đối bất ổn. Khí hậu ngày càng khắc nghiệt, thiên tai, dịch bệnh diễn ra với tần suất lớn, thường xuyên và khó lường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như động đất, cháy rừng, khí hậu nóng lên, hạn hán, nước biển dâng... Thêm vào đó, tình hình dịch COVID-19 diễn ra rất nhanh, nghiêm trọng, phức tạp, khó lường sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới.
- Tuy nhiên, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là xu thế nổi bật hiện nay. Vì vậy, mọi thành phần kinh tế ở Việt Nam, trong đó KTTT, HTX phải chủ động hội nhập, có tâm thế hợp tác và cạnh tranh không chỉ trong nước mà với khu vực và thế giới, nếu không hợp tác, liên kết tốt, KTTT, HTX vốn dĩ đã yếu thế so với các thành phần kinh tế khác sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh thời gian tới.
2. Tình hình đất nước
- Đối với các tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt; thiên tai, dịch bệnh, sạt lở, xâm nhập mặn diễn ra thường xuyên và khó lường. Thêm vào đó, tình hình dịch viêm phổi cấp COVID-19 diễn ra rất nhanh, nghiêm trọng, phức tạp, khó lường làm ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội khu vực.
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả KTTT nhằm kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ Chính trị, Luật HTX 2012, những kết quả đạt được, hạn chế, khó khăn, bất cập, nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm; đề xuất những chủ trương, giải pháp định hướng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trên địa bàn tỉnh.
3. Cơ hội và thách thức đối với khu vực KTTT, HTX
- Cơ hội, yêu cầu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chất lượng, an toàn, đặc biệt là nông sản, thực phẩm là một xu hướng tất yếu, đòi hỏi các HTX phải hợp tác, liên kết sản xuất, thương mại, đẩy mạnh thực hiện liên kết ngang giữa những người sản xuất và liên kết dọc theo chuỗi giá trị sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Trong liên kết phải lựa chọn các HTX có tính tương đồng trong tổ chức sản xuất cùng một loại sản phẩm hoặc HTX cung ứng những sản phẩm, dịch vụ nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất của thành viên.
- Thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, vừa mang đến cho nông dân, nông nghiệp những triển vọng vì có một sân chơi khổng lồ, nhưng đồng thời cũng bắt buộc nông dân đối diện với 4 luật chơi cực kỳ khó khăn, đó là: Luật chơi về an toàn thực phẩm, luật chơi về chất lượng, luật chơi về số lượng và luật chơi về giá cả. Bên cạnh đó, việc xóa bỏ hạn ngạch thuế quan cho một số lượng các mặt hàng nông sản mà Việt Nam vốn có khả năng cạnh tranh thấp sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với sản xuất của người nông dân, nhất là trong bối cảnh nền sản xuất nông nghiệp của ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp.
4. Dự báo xu hướng phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021 - 2025
a) Thuận lợi:
- Tỉnh Cà Mau có ưu thế riêng về thổ nhưỡng, khí hậu cũng như cây trồng, vật nuôi, chính vì vậy việc thành lập các mô hình HTX hoạt động với quy mô liên xã, liên huyện với những sản phẩm chủ lực của địa phương (OCOP) là một xu thế tất yếu mà các HTX cần hướng tới.
- Các hình thức KTTT, HTX đã thể hiện được vai trò liên kết, hỗ trợ thành viên. Tại nhiều địa phương, các mô hình tổ liên kết, THT, HTX là tâm điểm cho hỗ trợ, phát triển kinh tế hộ. Trong thời gian tới, bên cạnh việc phát triển mở rộng các hình thức KTTT, HTX việc mở rộng quy mô và tăng cường liên kết với các thành phần kinh tế khác là rất quan trọng, cần được tập trung để KTTT, HTX không chỉ là cơ sở để hỗ trợ thành viên của mình mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
b) Khó khăn:
- Đa số các HTX, nhất là HTX nông nghiệp chưa có kỹ năng xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, chủ yếu tập trung vào các dịch vụ truyền thống; việc áp dụng tiếp thu tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, giống...vào sản xuất chậm, chưa thu hút được cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật được đào tạo về làm việc tại các HTX.
- Các HTX vẫn giữ phương thức bán hàng truyền thống, chưa chú trọng thiết kế kiểu dáng, mẫu mã, bao bì nên khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế, tốc độ tăng trưởng chậm; liên kết, hợp tác giữa các HTX còn yếu, mô hình HTX chưa phát huy được hiệu quả.
- Hầu hết các HTX đều khó khăn về vốn và tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước, vốn vay tín dụng; nhiều HTX còn lúng túng trong định hướng hoạt động và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, hoạt động chưa hiệu quả.
- Các HTX đều khó khăn về mặt bằng sản xuất; nhiều HTX chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký được hợp đồng thuê đất lâu dài, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nên không thể xây dựng nhà xưởng để ổn định và đầu tư phát triển.
1. Kinh tế nhà nước, KTTT cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
2. Tiếp tục phát huy vai trò của KTTT, thực hiện tốt vai trò tập hợp, hỗ trợ và xem trọng lợi ích của thành viên thì vai trò của KTTT vẫn là xu hướng lựa chọn ưu tiên để phát triển, đặc biệt là đối với cư dân nông nghiệp, nông thôn.
3. Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, HTX; tăng cường đầu tư của Nhà nước và xã hội; ứng dụng nhanh, hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho KTTT, HTX, trong đó ưu tiên HTX nông nghiệp.
4. Khuyến khích phát triển bền vững KTTT, HTX với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, bảo đảm hài hòa lợi ích của chủ thể tham gia.
5. Tiếp tục phát triển KTTT, HTX trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn, trọng tâm là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển; gắn với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Phát triển KTTT, HTX theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất, tránh duy ý chí, nóng vội, gò ép, áp đặt; đồng thời không buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý, nắm bắt kịp thời và đáp ứng nhu cầu về phát triển KTTT, HTX của nhân dân.
1. Mục tiêu tổng quát
Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển các loại hình hợp tác trong các ngành, lĩnh vực kinh tế trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc, giá trị HTX và các quy định của pháp luật. Khuyến khích xây dựng mối liên kết giữa các HTX, tổ hợp tác với doanh nghiệp nhằm hỗ trợ nhau trong sản xuất, mở rộng quy mô, nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nâng cao tinh thần hợp tác trong cộng đồng dân cư, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
2. Các mục tiêu cụ thể
- Mỗi năm thành lập mới khoảng 80 THT; từ 18-20 HTX. Đến năm 2025 phấn đấu thành lập ít nhất được từ 1 đến 2 liên hiệp HTX.
- Phấn đấu có khoảng 60 đến 70% HTX, liên hiệp HTX hoạt động có hiệu quả (tốt, khá).
- Phấn đấu cán bộ quản lý HTX có từ 40 đến 50% trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp.
- Phấn đấu có từ 30 đến 40% HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Phấn đấu có 15 đến 20% HTX nông nghiệp liên kết sản xuất, kinh doanh theo mô hình liên kết chuỗi giá trị.
IV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KTTT GIAI ĐOẠN 2021-2025
1. Định hướng chung
- Khuyến khích phát triển KTTT trên các ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế, trên mọi vùng lãnh thổ; các hình thức mở rộng quy mô thành viên; ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh; sản xuất theo chuỗi giá trị, liên kết với doanh nghiệp; bảo đảm lợi ích thành viên...
- Tiếp tục phát triển KTTT với nhiều hình thức đa dạng, nòng cốt là các HTX với hệ thống sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chủ lực, có quy mô lớn và sức lan tỏa gắn với phát triển làng nghề và du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái; tăng cường liên kết, hợp tác giữa “5 nhà”. Khuyến khích thành lập mới HTX, liên hiệp HTX trên các lĩnh vực phù hợp với điều kiện của địa phương, gắn với xây dựng mô hình điểm hoạt động hiệu quả; phát huy vai trò, vị trí của khu vực KTTT đóng góp vào tăng trưởng kinh tế; xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng ở địa phương.
2. Định hướng phát triển KTTT theo ngành, lĩnh vực chủ yếu
- Tiếp tục củng cố, phát triển nhân rộng mô hình HTX kiểu mới gắn với sản xuất nông nghiệp an toàn theo hướng nông nghiệp hữu cơ và chuỗi giá trị sản phẩm, hàng hóa chủ lực, có tiềm năng, lợi thế ở địa phương.
- Hỗ trợ khuyến khích phát triển mạnh, hiệu quả hơn đối với các HTX sản xuất, kinh doanh lúa, gạo sạch; khuyến khích, hỗ trợ liên kết giữa các HTX để thành lập Liên hiệp HTX tiêu thụ sản phẩm; đẩy mạnh liên kết giữa HTX với doanh nghiệp, các làng nghề nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Xây dựng và mở rộng mô hình HTX ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến; sản xuất lúa, nếp, tôm sinh thái, rau màu, cây ăn trái an toàn; sản xuất theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.
- Tiếp tục củng cố các HTX hiện có để từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động; chú trọng phát triển các HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng vừa sản xuất tập trung vừa phân tán nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ; đồng thời đẩy mạnh phát triển HTX gắn với các chương trình khuyến công, khuyến nông, công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
- Trong lĩnh vực giao thông vận tải, tạo điều kiện cho các HTX được giao đất xây dựng trụ sở làm việc, bên bãi đậu xe, cơ sở sửa chữa, cung cấp xăng dầu, phụ tùng ôtô phục vụ thành viên và cộng đồng dân cư...
- Trong lĩnh vực tín dụng, đẩy mạnh hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân; tín dụng nội bộ trong HTX theo hướng hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất của thành viên; tích cực huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để nâng cao năng lực tài chính của Quỹ. Khuyến khích thành lập mới và phát triển các Quỹ tín dụng nhân dân ở các địa phương.
- Định hướng chiến lược phát triển KTTT, HTX trong các lĩnh vực khác, như khuyến khích phát triển các loại hình HTX ở những địa bàn có tiềm năng và triển vọng, khuyến khích thành lập HTX quản lý chợ... để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
V. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Các Sở, ban, ngành, đoàn thể và địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được phân công xây dựng giải pháp cụ thể nhằm thực hiện Kế hoạch phát triển KTTT, HTX trong thời gian tới, trong đó tập trung vào nhóm giải pháp sau:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân và hệ thống chính trị về bản chất, cơ chế hoạt động của HTX, vai trò và lợi ích của KTTT, HTX mang lại cho thành viên, đóng góp phát triển kinh tế xã hội
- Tiếp tục quán triệt cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể quan điểm về định hướng phát triển KTTT theo Nghị quyết số 13-NQ/TW và Chương trình hành động số 21-CTr/TU của Tỉnh ủy. Nhiệm vụ công tác tuyên truyền là phải làm cho các cấp ủy, người đứng đầu các cấp, các ngành, địa phương thấy được việc phát triển HTX là biện pháp quan trọng trong tổ chức lại sản xuất, trong khắc phục tình trạng nhỏ lẻ, manh mún hiện nay.
- Người đứng đầu các cấp, các ngành, đoàn thể nêu cao tinh thần trách nhiệm, phải có chương trình, kế hoạch công tác cụ thể đối với nhiệm vụ chỉ đạo phát triển HTX; thường xuyên chỉ đạo tổ chức khảo sát thực tế, tổ chức sơ, tổng kết, tổ chức hội thảo, hội thi về các mô hình HTX kiểu mới có hiệu quả; về chính sách phát triển KTTT, về liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất để hoàn thiện, nhân rộng các mô hình có hiệu quả.
- Đưa nội dung tuyên truyền về KTTT, HTX và phát triển KTTT vào nhiệm vụ chính trị thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và xem đây là một trong các chỉ tiêu đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị.
- Xem xét việc đưa nội dung phát triển KTTT, HTX vào giảng dạy trong hệ thống Trường Chính trị, các Trường nghề trong tỉnh.
2. Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về KTTT, HTX
- Phân công nhiệm vụ cụ thể công tác quản lý nhà nước về KTTT, HTX của các sở, ban, ngành cấp tỉnh; UBND các huyện, thành phố; cấp xã, phường và thị trấn.
- Bố trí cán bộ có kiến thức, kinh nghiệm và am hiểu về KTTT, HTX vào các vị trí quản lý nhà nước về HTX. Tăng cường bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về KTTT, HTX cho cán bộ quản lý nhà nước; quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển các tổ chức, cơ sở đảng, đoàn thể trong tổ chức KTTT, HTX.
- Định kỳ, tổng kết phong trào HTX trên toàn tỉnh để đánh giá kết quả thực hiện công tác phát triển KTTT, HTX như: công tác tuyên truyền, quản lý nhà nước, hiệu quả các chính sách hỗ trợ, các khó khăn vướng mắc về chế độ, chính sách pháp luật...
- Phát huy vai trò và nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, HTX; tăng cường mối liên hệ giữa BCĐ cấp tỉnh và cấp huyện, thành phố để phát huy vai trò và hiệu quả chỉ đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ được UBND tỉnh giao.
3. Hỗ trợ, xây dựng các mô hình KTTT, HTX kiểu mới phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0
Tạo điều kiện thuận lợi cho HTX ứng dụng thương mại điện tử vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận doanh nghiệp và thị trường, cần hỗ trợ xây dựng website cho các HTX có quy mô lớn, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại, dịch vụ... nhằm quảng bá thông tin, kết nối cung cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh của hợp tác xã, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
4. Giải pháp về tư vấn, hỗ trợ các THT, HTX, liên hiệp HTX ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
Tư vấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, giúp các HTX tiếp cận với quy trình sản xuất tiên tiến, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả KTTT.
5. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho sản phẩm nông nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm truyền thống của các liên hiệp HTX, HTX, THT, nông dân
Tổ chức đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng thông tin xúc tiến thương mại cho cán bộ, nhân viên của các cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng xúc tiến thương mại và cán bộ quản lý HTX để đáp ứng yêu cầu thực tế. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để đẩy mạnh hoạt động thu thập, trao đổi, mua bán thông tin xúc tiến thương mại hỗ trợ THT, HTX. Xây dựng các báo cáo chuyên đề xúc tiến thương mại đối với từng thị trường, ngành hàng, sản phẩm để cung cấp cho các hiệp hội, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và đối tác trong và ngoài nước. Nghiên cứu, từng bước chuyển dịch vụ cung cấp thông tin xúc tiến thương mại thành dịch vụ công theo quy định của pháp luật hiện hành. Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác thông tin xúc tiến thương mại; khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng phần mềm thu thập, xử lý thông tin xúc tiến thương mại, hệ thống đào tạo trực tuyến theo quy định của pháp luật hiện hành...
6. Tập trung nguồn lực từ ngân sách nhà nước và thị trường để hỗ trợ các mô hình HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị làm cơ sở để triển khai nhân rộng
Phân bổ và sử dụng hợp lý ngân sách Nhà nước dành cho phát triển nhân lực hỗ trợ các mô hình HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách Nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án đào tạo, dự án hỗ trợ của các tổ chức có nguồn vốn nước ngoài để nâng cao nguồn nhân lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, hỗ trợ nguồn nhân lực có trình độ cao về phục vụ phát triển KTTT, HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị bao gồm các nội dung vê môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội...
Trên đây là Kế hoạch phát triển Kinh tế tập thể giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh Cà Mau, Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp (Kèm theo các Biểu số liệu có liên quan)./.
Nơi nhận: |
KT. CHỦ TỊCH |
1 Lĩnh vực nông - lâm - ngư - diêm nghiệp: 1.080 THT; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: 50 THT; thương mại: 20 THT và lĩnh vực khác: 28 THT.
2 HTX Nông nghiệp - Thủy sản: 168 HTX; HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 8 HTX; HTX xây dựng 10 HTX; Quỹ tín dụng nhân dân: 02 QTD; HTX thương mại 17 HTX; HTX vận tải 20 HTX; HTX môi trường 5 HTX.
3 Điển hình như: HTX DVNN Kênh Dớn, huyện Trần Văn Thời; HTX DVNN-TS Ông Muộn, TP Cà Mau; HTX DV Lúa - Tôm Trí Lực, huyện Thới Bình...
4 Điển hình như: HTX G.V.H.B cua biển Năm Căn; HTX bánh phồng tôm Hàng Vịnh; HTX Tài Thịnh Phát Farm, huyện Năm Căn; HTX Tân Phát Lợi, huyện Ngọc Hiển...
5 Điển hình như: HTX nuôi tôm năng suất cao Tân Hưng, huyện Cái Nước; HTX cua giống Cái Trăng, huyện Năm Căn; HTX tôm giống Đồng Khởi; HTX tôm giống Đồng Đại Lợi, huyện Ngọc Hiên...
6 Điển hình như: HTX Taxi Đất Mũi; HTX Taxi Hưng Phát và HTX dịch vụ vận tải đường bộ Đồng Tiến...
7 Điển hình như: HTX Hầm than 2/9, huyện Năm Căn; HTX Anh Đào, huyện U Minh.
8 Điển hình như: HTX TM-DV Tân Tiến, huyện Ngọc Hiển và HTX DV-TM-Xây dựng Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời.
9 Điển hình như: HTX VSMT Hưng Thịnh, TP. Cà Mau; HTX Tài Lợi, huyện Ngọc Hiển.
10 Quỹ TDND Thới Bình, huyện Thới Bình và Quỹ TDND Phường 2, TP Cà Mau.
11 HTX bồn bồn - Cái Nước, HTX cá bồi - U Minh, HTX mật ong - U Minh, HTX cá khô khoai - Cái Đôi Vàm
12 HTX DVNN-TS Ông Muộn: 320.000.000 đồng và HTX G.V.H.B cua biển Năm Căn: 146.907.000 đồng.