Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Kế hoạch 6842/KH-UBND năm 2018 về phát triển kinh tế tập thể tỉnh Đắk Lắk năm 2019

Số hiệu 6842/KH-UBND
Ngày ban hành 15/08/2018
Ngày có hiệu lực 15/08/2018
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Đắk Lắk
Người ký Y Giang Gry Niê Knơng
Lĩnh vực Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 6842/KH-UBND

Đắk Lắk, ngày 15 tháng 08 năm 2018

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH ĐẮK LẮK NĂM 2019

PHẦN THỨ NHẤT

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2018

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ (HTX)

1. Đánh giá dựa trên các tiêu chí về hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX, Liên hip HTX

a) Về số lượng, doanh thu và thu nhập của HTX, Liên hiệp HTX, THT 6 tháng đầu năm 2018

- Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã: Toàn tỉnh có 432 HTX, 03 Liên hiệp HTX đăng ký hoạt động, trong đó có 235 HTX nông nghiệp, 59 HTX công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, 43 HTX vận tải, 53 HTX thương mại và dịch vụ, 30 HTX xây dựng và 12 Quỹ tín dụng nhân dân. Số HTX đang hoạt động ổn định: 335 HTX và khoảng 97 HTX ngừng hoạt động, chỉ còn tồn tại hình thức (chưa tiến hành thủ tục giải thể) - đạt 119% chỉ tiêu kế hoạch năm 2018 đề ra (KH: 360 đơn vị). Trong đó, số HTX thành lập mới trong 6 tháng đầu năm là 37 HTX (đạt 93% KH); số HTX giải thể: 03 HTX. Ước thực hiện đến cuối năm 2018, số HTX thành lập mới đạt từ 60 - 65 HTX, so với chỉ tiêu đề ra năm 2018 về HTX thành lập mới chỉ tiêu này dự kiến đạt 150%.

Số HTX hoạt động chưa phù hợp với quy định cần phải đăng ký lại hoặc chuyển đổi sang loại hình tổ chức khác theo quy định của Luật HTX năm 2012 là 175 HTX, số đã thực hiện chuyển đổi là 165 HTX, còn lại 10 HTX đang thực hiện việc đăng ký lại theo Luật HTX năm 2012.

Doanh thu bình quân của một HTX ước thực hiện năm 2018 là 1.200 triệu đồng/năm (đạt mục tiêu KH), lợi nhuận bình quân đạt: 185 triệu đồng/HTX, doanh thu của HTX với thành viên khoảng 150 triệu đồng/năm, thu nhập bình quân của người lao động: 30 triệu đồng/năm. Vốn điều lệ bình quân của 01 HTX: 1.500 triệu đồng.

- Về Tổ hợp tác (THT): Trong 06 tháng đầu năm 2018, thành lập mới được khoảng 100 THT, cùng với sự chấm dứt tồn tại của các THT sau khi hoàn thành hợp đồng hợp tác, đến nay toàn tỉnh có khoảng 5.100 THT đang hoạt động. Thu nhập bình quân của thành viên THT: 22 triệu đồng/người/năm.

b) Về thành viên, lao động của HTX, Liên hiệp HTX, THT

Tổng số thành viên HTX ước đến hết năm 2018 là 60.000 người; tổng số lao động trong HTX ước đến hết năm 2018 là 10.000 lao động (trong đó số lao động thường xuyên mới là 2.500 lao động, số lao động là thành viên HTX là 8.500 lao động). THT đang hoạt động đã thu hút khoảng hơn 60.000 thành viên, lao động; trong đó loại hình tổ liên kết và vay vốn, tổ tín dụng tiết kiệm chiếm đến 90% thành viên, lao động.

c) Về trình độ quản lý HTX, Liên hiệp HTX, THT

Toàn tỉnh hiện có khoảng 1.800 cán bộ quản lý, kế toán, nghiệp vụ làm việc tại các HTX. Phần lớn các HTX thiếu cán bộ có năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, cán bộ HTX có trình độ sơ cấp, trung cấp khoảng 40%; cao đẳng, đại học khoảng 25%, số còn lại chưa qua các lớp đào tạo, chtham gia các lớp tập huấn ngắn ngày do Liên minh HTX, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức. Do đó hoạt động của không ít HTX còn lúng túng, kế hoạch sản xuất kinh doanh chưa phù hợp, chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh trung và dài hạn.

Cán bộ quản lý trong HTX, THT trong thời gian qua đã có bước cải thiện nhưng chưa nhiều, chủ yếu là cán bộ của HTX cử đi đào tạo, rất ít người có trình độ cao đẳng, đại học tự nguyện tham gia quản lý HTX do chính sách thu hút lao động có trình độ về quản lý, khoa học kỹ thuật đến làm việc tại HTX chưa hấp dẫn và thu hút.

2. Đánh giá theo lĩnh vực

a) Lĩnh vực nông nghiệp: Tổng số HTX nông nghiệp tính đến tháng 6/2018 là 235 HTX (tăng 29 HTX so với năm 2017), số lượng HTX nông nghiệp thành lập mới 29 HTX. Số HTX yếu kém, ngừng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là 45 HTX (hiện đang hoàn tất các thủ tục giải thể); một số mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi được hình thành và phát triển; có 96/152 xã đạt tiêu chí số 13 (tổ chức sản xuất trong Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới) đã góp phần quan trọng trong việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

Tổng số thành viên của HTX nông nghiệp là 11.033 thành viên, bình quân: 53 thành viên/HTX; tài sản bình quân 2,3 tỷ đồng/HTX; doanh thu bình quân 2,5 tỷ đồng/HTX, lợi nhuận bình quân 130 triệu đồng/HTX và kết quả xếp loại: 28,3% HTX hoạt động khá, tốt; 32% HTX hoạt động trung bình, 39,7% HTX hoạt động yếu (chủ yếu là các HTX đã ngừng hoạt động chờ xử lý, giải thể) và 49 HTX chưa phân loại (chủ yếu do mới thành lập).

Các HTX nông nghiệp là một trong những mắt xích quan trọng, cầu nối liên kết hữu hiệu giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Ở một số vùng sản xuất chuyên canh, diện tích lớn, tập trung vào một số loại sản phẩm có khối lượng nhiều, bước đầu đã hình thành các chuỗi liên kết giữa các HTX với nhà máy chế biến nông sản trong tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp như: Cà phê có chứng nhận, lúa, gạo, sắn, mía, ca cao.... Hoạt động hiệu quả của nhiều HTX đã góp phần hình thành nên các mô hình liên kết trong sản xuất, liên kết một khâu, một số khâu hoặc tất cả các khâu trong chuỗi giá trị, đặc biệt là sản phẩm chủ lực cà phê, tiêu biểu như: HTX DVNN Công Bằng Ea Kiết, HTX DVNN Công Bằng Cư Dliê M’nông (huyện Cư M’gar), HTX DVNN Công Bằng Ea Kmat (huyện Krông Pắk), HTX DVTH Nông nghiệp Thăng Bình (xã Cư Kty - huyện Krông Bông), HTXNN 714 (xã Ea Pal - huyện Ea Kar)...Bên cạnh đó, các HTX mới thành lập đã chú trọng hơn đến việc liên kết với doanh nghiệp, các tổ chức trong sản xuất các sản phẩm nông nghiệp “sạch”, tham gia vào các chuỗi giá trị, như: HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhân An, huyện Krông Pắk; HTX SX và KD Nông nghiệp Quân Vương, huyện Buôn Đôn; HTX nấm linh chi và dịch vụ nông nghiệp Krông Ana.

b) Lĩnh vực Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp: Toàn tỉnh có 59 HTX công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, chiếm 13% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút 9.500 thành viên tham gia, giải quyết việc làm cho 3.900 lao động. Các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh khá đa dạng, như: Mây tre đan, dệt thổ cẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến gỗ, mỹ nghệ, điện nước... góp phần giải quyết việc làm, phát triển và duy trì ngành nghề, văn hóa truyền thống ở địa phương. Một số HTX đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tham gia hội chợ, triển lãm, maketing để tìm kiếm, mở rộng thị trường, mở thêm ngành nghề kinh doanh mới như: HTX điện - nước M’Đrắk kinh doanh điện nay đã chuyển sang kinh doanh đa ngành nghề; HTX Tiến Nam, huyện M’Đrắk đầu tư nhiều tỷ đồng để trồng rừng và chế biến gỗ; HTX dệt thổ cẩm Tơng Bông, thành phố Buôn Ma Thuột kết nối với doanh nghiệp để làm dịch vụ du lịch.

c) Lĩnh vực Vận tải: Toàn tỉnh có có 43 HTX vận tải, chiếm 10% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút hơn 2.700 thành viên tham gia, giải quyết việc làm cho hơn 2.000 lao động. Đa số HTX vận tải hoạt động khá hiệu quả, có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng phục vụ; khai thác tối đa luồng tuyến, vận chuyển khoảng 70% khối lượng hàng hóa và 55% số lượng hành khách trong tỉnh. Một số HTX đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để xây dựng bến bãi, dịch vụ xăng dầu, điểm dừng nghỉ, mua mới phương tiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phục vụ của hành khách; tiêu biểu trong lĩnh vực này là các HTX: HTX Quyết Thắng, huyện Krông Pắk; HTX vận tải Cư Mil, huyện Ea Súp; HTX vận tải Thành Công, thị xã Buôn Hồ; HTX vận tải Krông Năng.

d) Lĩnh vực Xây dựng: Toàn tỉnh có 30 HTX xây dựng, chiếm khoảng 7% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút khoảng 2.600 thành viên tham gia. Các HTX lĩnh vực xây dựng đã tập hợp các thành viên là người lao động có tay nghề chủ yếu là tạo việc làm cho thành viên, thi công các công trình có quy mô nhỏ của địa phương như trụ sở làm việc của phường, xã, trường học, cầu cống, đường giao thông nông thôn.

e) Lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ: Toàn tỉnh có 53 HTX thương mại - dịch vụ, chiếm 12% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút khoảng 2.500 thành viên tham gia. Các HTX lĩnh vực này chủ yếu kinh doanh mua bán các loại hàng hóa nông sản, phân bón, xăng dầu, giết mổ gia súc, dịch vụ du lịch với quy mô nhỏ. Tuy nhiên, cũng có HTX trên cơ sở cung ứng dịch vụ, thu mua sản phẩm đã liên minh được với nhiều hộ nông dân sản xuất cà phê bền vững và một số HTX kinh doanh chợ, HTX dịch vụ du lịch hoạt động khá hiệu quả, điển hình như: HTX cà phê Thủy Tiến - Ea H’Leo; HTX kinh doanh chợ Buôn Trp; Xí nghiệp (HTX) thương mại và Dịch vụ Hoàng Lộc - thành phố Buôn Ma Thuột.

f) Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND): Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 12 Quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động; các QTDND đã tập trung kiện toàn lại bộ máy quản trị, điều hành, kiểm soát; thực hiện phương án cơ cấu lại hoạt động đã được NHNN tỉnh phê duyệt. Đến nay, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành của 11/12 QTDND trên địa bàn đã được củng cố, chấn chỉnh, đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định. Đến ngày 30/6/2018, tổng nguồn vốn hoạt động của các QTDND đạt 1.778 tỷ đồng, giảm 0,06% so với đầu năm (trong đó, vốn điều lệ đạt 97 tỷ đồng, tăng 4,3% so với đầu năm). Tổng nguồn vốn huy động đạt 1.305 tỷ đồng, giảm 1,28% so với đầu năm. Tổng dư nợ đạt 1.575 tỷ đồng, giảm 0,51% so với đầu năm. Nợ xấu 1.057 triệu đồng, chiếm 0,07%/tổng dư nợ. Hoạt động của các QTDND đã góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trên địa bàn nông thôn, góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ

1. Kết quả triển khai Luật và các văn bản hướng dẫn

Để các chủ trương, chính sách, pháp luật về HTX đi vào cuộc sống, trong năm 2018, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Chương trình hành động, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về phát triển kinh tế tập thể như: Chương trình thực hiện Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/3/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (Chương trình 30-CTr/TU ngày 2/8/2013); Kế hoạch triển khai Chương trình số 30-CTr/TU của Tỉnh ủy (Quyết định số 2272/QĐ-UBND ngày 30/10/2013); Nghị quyết số 02/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của HĐND tỉnh về phát triển kinh tế tập thể tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 05/2016/QĐ-UBND ngày 22/02/2016 về việc ban hành Quy chế phối hợp quản lý HTX, THT trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày 18/4/2017 về quy định mức hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn trên địa bàn tỉnh;

[...]