Kế hoạch 130/KH-UBND năm 2018 về phát triển kinh tế tập thể năm 2019 do tỉnh Kiên Giang ban hành

Số hiệu 130/KH-UBND
Ngày ban hành 10/08/2018
Ngày có hiệu lực 10/08/2018
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Kiên Giang
Người ký Lê Thị Minh Phụng
Lĩnh vực Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 130/KH-UBND

Kiên Giang, ngày 10 tháng 8 năm 2018

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2019

Thực hiện Công văn số 4626/BKHĐT-HTX, ngày 09 tháng 7 năm 2018, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về việc, “Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể năm 2019”. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể (KTTT) năm 2019 trên địa bàn tỉnh, với nội dung như sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2018

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ

1. Về số lượng, doanh thu và thu nhập của các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT)

1.1. Hợp tác xã

Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh thành lập mới 15 HTX, ước đến cuối năm thành lập được 29 HTX, đạt và vượt 193,3% kế hoạch. Lũy kế đến hết năm 2018, ước trên địa bàn tỉnh có 375 HTX đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế, và tăng 27 HTX so với cuối năm 2017. Trong 6 tháng đầu năm 2018, có 02 HTX giải thể và 01 HTX chuyển sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn.

Doanh thu bình quân HTX ước đạt 6.069 triệu đồng/HTX/năm, thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong HTX ước đạt 47 triệu đồng/năm.

1.2. Tổ hợp tác

Trong 6 tháng đầu năm thành lập mới 39 tổ hợp tác (THT), ước đến cuối năm phát triển mới 82 THT. Ước đến cuối năm trên địa bàn tỉnh có 2.030 THT hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Đa số các THT có hợp đồng hợp tác và có chứng thực của UBND cấp xã; có 46 THT chuyển đổi, phát triển thành HTX, THT lớn. Doanh thu bình quân của THT là 170 triệu đồng/năm; lợi nhuận bình quân của THT là 20 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong THT là 18 triệu đồng/năm.

2. Về thành viên, lao động của HTX, THT

Tổng số thành viên HTX ước đến hết năm 2018 là 47.381 thành viên, tổng số lao động trong HTX ước đến hết năm 2018 là 7.300 lao động (trong đó lao động đồng thời là thành viên là 7.300 lao động). THT đang hoạt động đã thu hút khoảng hơn 58.871 tổ viên, lao động (trong đó, ra khỏi THT do sáp nhập THT lớn, thành lập HTX mới là 1.334 tổ viên).

3. Về trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã, tổ hợp tác

Toàn tỉnh hiện có khoảng 1.674 cán bộ quản lý, trong đó cán bộ có trình độ sơ cấp, trung cấp khoảng 450 người (chiếm 26,88%); cao đẳng, đại học khoảng 50 người (chiếm 3%); còn lại đa số là cán bộ HTX nông nghiệp chỉ được bồi dưỡng, tập huấn qua các lớp ngắn ngày. THT là 4.060 cán bộ quản lý, cán bộ THT có trình độ sơ cấp, trung cấp khoảng 250 người (chiếm 6,2%); cao đẳng, đại học khoảng 30 người (chiếm 0,7%) còn lại chưa qua các lớp bồi dưỡng. Do đó, hoạt động của không ít HTX, THT còn hạn chế, chưa xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh .

II. ĐÁNH GIÁ THEO LĨNH VỰC

1. Lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản

Tính đến tháng 6/2018, toàn tỉnh có 310 HTX, dự kiến đến cuối năm có 329 HTX nông nghiệp, thủy sản (trong đó, 281 HTX nông nghiệp và 48 HTX thủy sản) chiếm 87,7% tổng số HTX toàn tỉnh. Tạo việc làm cho 1.974 lao động; doanh thu bình quân là 257 triệu đồng/HTX/năm; lợi nhuận bình quân 60 triệu đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 12 triệu đồng/năm.

Hoạt động của các HTX nông nghiệp chủ yếu thực hiện một số khâu dịch vụ hỗ trợ cho thành viên như: Bơm tát tập trung; dịch vụ làm đất, thu hoạch, cung ứng cây, con giống thông qua việc thuê chung, mua chung; đồng quản lý, tiêu thụ sản phẩm và quản lý lịch thời vụ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới trong nông nghiệp; các dịch vụ của HTX; tuy doanh thu và lợi nhuận không cao, nhưng đã hỗ trợ thiết thực trong việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; góp phần ổn định đầu ra cho sản phẩm hàng hóa, giúp thành viên tiết kiệm được thời gian để tự tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

2. Lĩnh vực giao thông vận tải

Đến hết tháng 6/2018, toàn tỉnh có 13 HTX vận tải, thu hút 1.161 thành viên tham gia, giải quyết việc làm cho 3.452 lao động.

Đa số HTX vận tải có sự phát triển về quy mô và chất lượng phục vụ; khai thác tối đa các luồng tuyến vận chuyển hàng hóa và hành khách. Một số HTX đã đầu tư mua mới phương tiện chất lượng cao để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phục vụ hành khách; HTX đã mở thêm luồng, tuyến, tìm kiếm, ký kết các hợp đồng vận chuyển khách tham quan, du lịch... Điển hình hoạt động tốt như HTX Giao thông vận tải thành phố Rạch Giá, HTX Giao thông vận tải Kiên Tân, huyện Kiên Lương; HTX Vận tải Đảo Ngọc, huyện Phú Quốc. Doanh thu bình quân của HTX là 139 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 48 triệu đồng/năm.

3. Lĩnh vực xây dựng

Đến hết tháng 6/2018, toàn tỉnh có 03 HTX xây dựng, tạo việc làm cho 1.421 lao động, doanh thu bình quân của HTX là 1,655 tỷ đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX 60 triệu đồng/năm.

Các HTX xây dựng tập hợp các thành viên là người lao động có tay nghề để thi công, tu sửa các công trình có quy mô nhỏ và vừa của địa phương như: Nhà ở, cầu cống, kênh mương, đường giao thông nông thôn... HTX xây dựng cũng gặp khó khăn do thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, công trình thi công nhận được không ổn định, nên ảnh hưởng đến hoạt động chung của HTX.

4. Lĩnh vực thương mại - dịch vụ

Đến hết tháng 6/2018, toàn tỉnh có 03 HTX thương mại, dịch vụ, thu hút và tạo việc làm cho 27 thành viên; doanh thu bình quân của HTX là 1,245 tỷ đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 51 triệu đồng/năm.

[...]