Thứ 7, Ngày 26/10/2024

Kế hoạch 3980/KH-UBND năm 2022 thực hiện Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Số hiệu 3980/KH-UBND
Ngày ban hành 03/08/2022
Ngày có hiệu lực 03/08/2022
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bình Dương
Người ký Mai Hùng Dũng
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3980/KH-UBND

Bình Dương, ngày 03 tháng 8 năm 2022

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN ĐỀ ÁN PHÒNG, CHỐNG SẠT LỞ BỜ SÔNG ĐẾN NĂM 2030 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Thực hiện Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phòng, chng sạt lở bờ sông, bờ bin đến năm 2030, Công văn số 4986/BNN-PCTT ngày 28 tháng 7 năm 2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc triển khai thực hiện Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030 và xem xét Tờ trình s 1252/TTr-SNN ngày 15 tháng 6 năm 2022 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xây dựng Kế hoạch thực hiện Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Dương như sau:

I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH

1. Hiện trạng

Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, địa hình chuyển tiếp từ miền núi trung du sang đồng bằng. Là tỉnh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa điển hình, khí hậu nóng ẩm, có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Bình Dương không giáp biển, có vị trí nằm giữa 2 con sông lớn là sông Sài Gòn và sông Đồng Nai chịu ảnh hưởng bởi chế độ thủy triều của biển Đông, trong nội tỉnh có sông Bé, sông Thị Tính chảy qua và nhiều suối, kênh rạch nhánh.

Toàn tỉnh hiện có 60 điểm sạt lở cũ từ các năm trước ảnh hưởng đến đất sản xuất nông nghiệp, đường giao thông và nhà ở của người dân. Năm 2021, không phát sinh các điểm sạt lở mới, tuy nhiên ven sông Đồng Nai còn 16 điểm sạt lở thuộc thị xã Tân Uyên với tổng chiều dài 4.059m vẫn tiếp tục sạt lở. Cụ thể:

- Sông Đồng Nai có 38 điểm với tổng chiều dài 8.132m (thị xã Tân Uyên có 23 điểm, huyện Bắc Tân Uyên có 15 điểm) đều là các điểm sạt lở cũ; trong đó, có 29 điểm sạt lở ảnh hưởng đến nhà ở của người dân (thị xã Tân Uyên có 21 điểm, huyện Bắc Tân Uyên có 08 điểm) và 16 điểm thuộc thị xã Tân Uyên với tổng chiều dài 4.059m vẫn tiếp tục sạt lở trong năm 2021. Hiện có 93 hộ dân trong khu vực sạt lở nguy hiểm cần phải di dời (thị xã Tân Uyên 28 hộ, huyện Bắc Tân Uyên 65 hộ)

- Sông Sài Gòn có 16 điểm sạt lở với tổng chiều dài 16.165m (huyện Dầu Tiếng có 13 điểm, thành phố Thủ Dầu Một có 02 điểm và thành phố Thuận An có 01 điểm) đều là các điểm sạt lở cũ, hiện đã ổn định.

- Sông Thị Tính có 05 điểm sạt lở với tổng chiều dài sạt lở 747m thuộc huyện Dầu Tiếng (An Lập 03 điểm, Long Tân 02 điểm) các điểm sạt lở xảy ra từ trước năm 2018, hiện đã ổn định.

- Sông Bé có 01 điểm sạt lở dài 500m từ năm 2010 thuộc xã An Thái, huyện Phú Giáo, hiện đã ổn định.

2. Nguyên nhân

a) Nguyên nhân khách quan:

- Trên sông Đồng Nai, Sài Gòn ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều nên chế độ dòng chảy sông liên tục thay đổi theo triu, khi triu rút, mực nước sông xuống thấp thì trọng lượng khối đất và áp lực nước thấm từ bờ ra sông đều tăng lên, đất bờ sông bị thay đổi trạng thái khô-ướt liên tục, gây nứt nẻ làm giảm lực liên kết giữa chúng gây ra sạt lở.

- Tại các khu vực bờ lõm của khúc sông cong hoặc khu vực ngã ba sông (ngã ba sông Đồng Nai - sông Bé và sông Sài Gòn - sông Thị Tính) là những nơi có lưu tốc dòng chảy mạnh, chế độ dòng chảy rất phức tạp, hình thành nên các dòng xoáy, dòng chảy vòng, tạo nên các hố xói sâu, khi các hố xói sâu phát triển mở rộng, tiến dần đến gần bờ, mái bờ trở nên dốc đứng, kết quả là lực chống trượt cho khối đất mái bờ giảm đi, khối đất mái bờ bị mất cân bằng và xảy ra hiện tượng trượt theo cung tròn hoặc sụt lở theo từng mảng.

- Trong mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 11 hàng năm, đất bờ sông bị bão hòa nước làm tăng trọng lượng khối đất bờ, phát sinh áp lực thấm làm tăng gia tải mép bờ sông dễ gây sạt, trượt.

b) Nguyên nhân chủ quan:

- Trong giai đoạn năm 2000 ÷ 2005, do khai thác cát dưới lòng sông gây sạt lở nghiêm trọng bờ sông trên địa bàn tỉnh. Từ năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã cấm khai thác cát trên sông Sài Gòn, sông Đồng Nai đoạn qua địa bàn tỉnh nên tình hình sạt lở bờ sông đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra tình trạng lén lút khai thác cát trái phép nên vẫn còn xảy ra tình trạng sạt lở.

- Hoạt động của các bến thủy nội địa, neo tàu thuyền vào bờ, sóng do tàu thuyền di chuyển vỗ vào bờ làm tăng gia tải mép bờ sông dễ gây sạt, trượt.

- Do tốc độ đô thị hóa nhanh, việc san lấp mặt bằng, xây dựng nhà và công trình lấn chiếm bờ sông, rạch ngày càng tăng làm tăng tải trọng lên mép bờ, kết hợp với các nguyên nhân khách quan làm tăng nguy cơ sạt lở.

- Do công tác quản lý, bảo vệ lòng, bờ sông chưa được chú ý đúng mức, công tác xử lý lấn chiếm bờ sông, suối, rạch tự nhiên chưa triệt để.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1. Phòng, chống sạt lở bờ sông (bao gồm bờ sông, suối, kênh, rạch) nhằm đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân, công trình phòng chng thiên tai, cơ sở hạ tầng, ổn định dân sinh là nhiệm vụ của các cấp, ngành, đặc biệt là của chính quyền địa phương là trách nhiệm của các tổ chức, doanh nghiệp và toàn dân.

2. Chủ động phòng ngừa sạt lở; khi xây dựng, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch phát triển của các sở, ngành, địa phương, đặc biệt là xây dựng các khu đô thị, dân cư, công nghiệp, dịch vụ, cơ sở hạ tầng ven sông phải đề phòng nguy cơ sạt lở và không làm tăng nguy cơ sạt lở. Khi xảy ra sạt lở phải tập trung ứng phó, khc phục kịp thời, hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại.

3. Phòng, chống sạt lở bờ sông cần được thực hiện đồng bộ; xử lý cấp bách trước mắt, đồng thời có giải pháp căn cơ lâu dài; kết hợp giải pháp công trình và phi công trình, không làm tăng nguy cơ sạt lở, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

4. Phòng, chống sạt lở phải được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên bảo đảm an toàn hệ thống đê điều, khu dân cư tập trung, cơ sở hạ tầng quan trọng.

5. Đề cao sự tham gia của cộng đồng đối với công tác quản lý bờ, lòng sông; tăng cường huy động nguồn lực ngoài ngân sách, nhất là của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân được hưởng lợi trong phòng, chống sạt lở.

6. Ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, ưu tiên ứng dụng công nghệ mới thân thiện với môi trường, dễ thi công, có thể sử dụng nhiều lần, giá thành phù hợp, kết hợp với giải pháp truyền thống. Quản lý hiệu quả nguồn nước, giảm thiểu các yếu tố tác động gây sạt lở bờ sông.

[...]