Kế hoạch 244/KH-UBND năm 2022 về hành động khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2022-2030

Số hiệu 244/KH-UBND
Ngày ban hành 25/07/2022
Ngày có hiệu lực 25/07/2022
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Tiền Giang
Người ký Nguyễn Văn Vĩnh
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 244/KH-UBND

Tiền Giang, ngày 25 tháng 7 năm 2022

 

KẾ HOẠCH

HÀNH ĐỘNG KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHẤT ĐỘC HÓA HỌC/DIOXIN SAU CHIẾN TRANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG GIAI ĐOẠN 2022 - 2030

Căn cứ Quyết định số 2215/QĐ-TTg ngày 28/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch hành động Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030;

Căn cứ Công văn số 1332/BQP-VP701 ngày 04/5/2022 của Bộ Quốc phòng về việc triển khai công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh ở Việt Nam.

Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Tiền Giang xây dựng kế hoạch hành động khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022 - 2030:

I. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

Xử lý dứt điểm chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh khi phát hiện, trình báo; điều tra, khảo sát và rà soát chặt chẽ các khu vực có chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh; tổng hợp, nắm chắc số lượng người đã bị và nguy cơ bị ảnh hưởng chất độc hóa học/dioxin về sức khỏe; xử lý an tuyệt đối không để gia tăng nạn nhân chất độc hóa học/dioxin; định hướng, hỗ trợ nạn nhân vượt qua khó khăn, vươn lên cuộc sống, hòa nhập cộng đồng; đánh giá, nhận định, phân tích kỹ lưỡng và quản lý hiệu quả, chặt chẽ đối với nhiệm vụ khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh.

2. Mục tiêu cụ thể

Đến năm 2030 xử lý an toàn triệt để 100% những khu vực phát hiện chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh.

Đến năm 2025 kiểm soát trên 85% nạn nhân có nguy cơ bị phơi nhiễm tại các khu vực bị ô nhiễm chất độc hóa học. Đến năm 2030 kiểm soát hoàn toàn 100% các khu vực không để gia tăng nạn nhân nhiễm chất độc hóa học.

Đến năm 2025 xác định trên 90% nạn nhân chất độc hóa học. Đến năm 2030 hoàn thành 100% việc xác định nạn nhân chất độc hóa học qua các thế hệ đủ điều kiện hưởng những chế độ, chính sách của Nhà nước theo quy định.

Rà soát nắm chắc 100% phụ nữ có thai tại các vùng bị ô nhiễm chất độc hóa học; 100% nạn nhân chất độc hóa học được quản lý thai nghén chặt chẽ và tư vấn sinh sản không để gia tăng nạn nhân chất độc hóa học thế hệ tiếp theo.

Nắm chắc 100% các trường hợp nạn nhân chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh không đảm bảo các điều kiện sống cơ bản theo quy định vùng để có chủ trương, biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân vượt qua khó khăn, vươn lên cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.

Cập nhật thông tin dữ liệu, quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh.

II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1. Tổ chức rà soát, xây dựng và hoàn thiện văn bản pháp luật, quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin

Tổ chức rà soát chặt chẽ hoàn thành sớm việc xác định toàn bộ nạn nhân chất độc hóa học/dioxin qua các thế hệ. Nắm chắc văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương nhất là các quy định, quy chuẩn, hướng dẫn về các chế độ, chính sách của Nhà nước bảo đảm cho nạn nhân chất độc hóa học/dioxin nhằm cải thiện cuộc sống, tạo điều kiện việc làm để vượt qua khó khăn, vươn lên cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.

Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở ở địa địa phương, cơ quan, đơn vị liên quan xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ đối với nạn nhân chất độc hóa học/dioxin. Từ đó, đề ra chủ trương, biện pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong xác định đối tượng nạn nhân chất độc hóa học/dioxin được hưởng các chế độ, chính sách của Nhà nước, đảm bảo không nhầm lẫn, bỏ sót.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh

Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cộng đồng người dân và cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương trong công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh, sự nguy hiểm và tác hại lâu dài của chất độc hóa học/dioxin đối với môi trường, sức khỏe con người.

Làm tốt công tác tuyên truyền để lan tỏa sự yêu thương, giúp đỡ của các cấp, các ngành, các cơ quan tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế đối với nạn nhân và hoạt động khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin. Kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ nạn nhân cải thiện cuộc sống, vượt qua khó khăn, hòa nhập cộng đồng.

Cấp ủy, chính quyền các cấp cần nêu cao vai trò trách nhiệm thực hiện tốt Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 14/5/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; các quy định về chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học trong Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và các văn bản liên quan khác.

3. Đẩy nhanh tiến độ tổ chức xử lý chất độc hóa học/dioxin, kiểm soát các nguy cơ phơi nhiễm, ngăn chặn gia tăng nạn nhân

Nắm chắc vị trí địa hình, rà soát, kiểm tra tổ chức khoanh vùng và sử dụng các biện pháp bảo đảm an toàn, bảo vệ khu vực có chất độc hóa học/dioxin sau chiến tranh. Kiểm soát chặt chẽ các nguy cơ có thể làm phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin ra ngoài cộng đồng, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người không để gia tăng nạn nhân.

Phối hợp chặt chẽ với lực lượng chuyên môn của Quân đội xử lý có hiệu quả chất độc hóa học/dioxin đảm bảo đúng quy định và an toàn tuyệt đối.

4. Bảo đảm thực hiện chế độ, chính sách đối với nạn nhân chất độc hóa học/dioxin

Thực hiện tốt các chế độ chính sách của Nhà nước, các nguồn kinh phí huy động từ cá nhân, cơ quan, tổ chức, nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh, trong nước và quốc tế nhằm giúp đỡ nạn nhân chất độc hóa học/dioxin cải thiện cuộc sống, vượt qua khó khăn, hòa nhập cộng đồng.

[...]