Kế hoạch 175/KH-UBND năm 2018 về phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 do tỉnh Đồng Tháp ban hành

Số hiệu 175/KH-UBND
Ngày ban hành 31/07/2018
Ngày có hiệu lực 31/07/2018
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Đồng Tháp
Người ký Châu Hồng Phúc
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 175/KH-UBND

Đồng Tháp, ngày 31 tháng 7 năm 2018

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2019

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM VÀ ƯỚC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2018

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2018

Trong 6 tháng đầu năm 2018, tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh tiếp tục có sự chuyển biến tích cực. Giá trị nông sản, sản phẩm công nghiệp chủ lực, thương mại - dịch vụ đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ, đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân tiếp tục được nâng lên. Tăng trưởng GRDP đạt 8,02% (mục tiêu kế hoạch tăng từ 6,5% đến 7%). Trong đó, khu vực nông - lâm - thủy sản tăng 9,44%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 8,14%; khu vực thương mại - dịch vụ tăng 6,72% (so cùng kỳ thứ tự lần lượt: 5,42% và 1,64%; 6,11%; 8,80%). Kết quả cụ thể như sau:

1. Kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp đạt được kết quả bước đầu với những mô hình canh tác thông minh, tinh thần hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ có sự chuyển biến tích cực, vai trò chủ thể của người dân được phát huy trong quá trình xây dựng nông thôn mới

Tiếp tục phát huy hiệu quả tích cực của đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong việc chuyển đổi phương thức sản xuất, chú trọng tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, sản xuất theo nhu cầu của thị trường, tăng thu nhập cho nông dân, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao tiếp tục được nhân rộng(1).

UBND Tỉnh đã thành lập Tổ Thông tin và Phân tích thị trường nông sản nhằm tăng sự gắn kết giữa sản xuất và thị trường góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp Tỉnh phát triển. Đồng thời, tiếp tục củng cố phát triển các hợp tác xã để liên kết với các nhà vựa, doanh nghiệp thực hiện khép kín từ khâu cung ứng vật tư đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, hình thành vùng sản xuất hàng hoá quy mô lớn phục vụ phát triển công nghiệp chế biến, đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu... góp phần tăng thêm thu nhập, nâng cao mức sống của người dân.

Ước tính đến cuối tháng 6 năm 2018, diện tích gieo trồng lúa đạt 459.362 ha, sản lượng thu hoạch đạt 1,92 triệu tấn (bằng 85% về diện tích và 59% về sản lượng so với kế hoạch), năng suất bình quân đạt 65 tạ/ha (tăng 6 tạ/ha so với cùng kỳ)(2). Nhiều địa phương tiếp tục khuyến khích việc liên kết tiêu thụ lúa với doanh nghiệp(3), đẩy mạnh nhân rộng các mô hình ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất(4) đã góp phần làm giảm giá thành sản xuất từ 550 - 600 đồng/kg (thấp hơn giá thành sản xuất lúa bình quân khu vực đồng bằng sông Cửu Long khoảng 550 đồng/kg). Điển hình là mô hình canh tác lúa lý tưởng được thực hiện thí điểm tại Hợp tác xã Mỹ Đông 2, huyện Tháp Mười, theo đó, tất cả các quy trình xuống giống, bón phân đều được cơ giới hóa, việc quản lý mực nước được tự động hoá và điều khiển bằng điện thoại thông minh, mô hình này có giá thành sản xuất thấp nên lợi nhuận của nông dân tăng lên. Cùng với việc giá tiêu thụ lúa tăng từ 650 - 750 đồng/kg so với cùng kỳ, người sản xuất lãi từ 20 - 22 triệu đồng/ha, tăng 10 - 12 triệu đồng so với cùng kỳ. Ước giá trị sản xuất ngành hàng lúa đạt 6.801 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 15,11% so với cùng kỳ; đóng góp 2,06% tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh (tương đương 439 tỷ đồng).

Các địa phương đã thực hiện chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái và các loại cây trồng khác mang lại hiệu quả kinh tế cao nên diện tích trồng cây ăn trái đạt 29.662 ha (tăng 2.379 ha so với cùng kỳ); các hợp tác xã, tổ hợp tác tiếp tục được củng cố, nhằm phát huy vai trò gắn kết trong liên kết sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nông sản. Điển hình là mô hình trồng dưa lê, dưa lưới sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt từ công nghệ Israel trong nhà màng với diện tích 30.000m2 của Công ty TNHH MTV Nông trại sinh thái Đồng Tháp (Ecofarm Đồng Tháp) mang lại hiệu quả kinh tế rất cao (hiện công ty đang mở rộng quy mô sản xuất thêm 20.000m2 nhà lưới), Tỉnh đang khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu tư theo hướng này.

Đối với ngành hàng xoài, Tỉnh tiếp tục tập trung nâng cao chất lượng trái xoài, đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Cao Lãnh” cho trái xoài Cao Lãnh (huyện Cao Lãnh và thành phố Cao Lãnh), hỗ trợ kinh phí mua máy in phun logo và mã code truy xuất nguồn gốc trực tiếp lên trái xoài cho Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương; thực hiện mô hình canh tác rải vụ, giá bán cao hơn xoài chính vụ từ 1,5 - 2 lần(5). Kết quả, ngoài các thị trường xuất khẩu trước đây như Hàn Quốc, Nhật Bản, Newzealand, Trung Quốc, Nga... trái xoài tiếp tục vượt qua các tiêu chuẩn kiểm định nghiêm ngặt để vào thị trường Mỹ. Ước tính giá trị sản xuất ngành hàng xoài đạt 1.339 tỷ đồng (theo giá năm 2010), tăng 4,18% so với cùng kỳ; đóng góp 0,12% tốc độ tăng trưởng chung của Tỉnh (tương đương 26,5 tỷ đồng).

Ngành hàng hoa kiểng đã cơ bản kết nối giữa người sản xuất với doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển nghề trồng hoa kiểng gắn với phát triển du lịch, nhất là trong dịp Tết nguyên đán Mậu Tuất 2018. Diện tích trồng hoa kiểng đạt 1.465 ha (tăng 265 ha so với cùng kỳ). Tiêu biểu là mô hình trồng hoa kiểng trong nhà màng tại Hợp tác xã Hoa kiểng Tân Quy Đông (thành phố Sa Đéc) là bước tiến quan trọng trong việc khắc phục sự phụ thuộc vào thời tiết, người trồng hoa có thể sản xuất quanh năm, giảm tỷ lệ hao hụt, đạt lợi nhuận cao. Ước giá trị sản xuất ngành hoa kiểng đạt 1.188 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 18,52% so với cùng kỳ; đóng góp 0,43% tốc độ tăng trưởng chung của Tỉnh (tương đương 91,3 tỷ đồng).

Đối với ngành chăn nuôi, các địa phương đang tập trung triển khai Kế hoạch tái cơ cấu ngành chăn nuôi đến năm 2020 của Tỉnh với 03 vùng chăn nuôi trọng tâm(6), nhằm tổ chức lại sản xuất theo hướng chăn nuôi trang trại, công nghiệp, bán công nghiệp, giết mổ chế biến tập trung... đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Mô hình chăn nuôi vịt áp dụng kỹ thuật nuôi rọ tiếp tục được nhân rộng, hộ nuôi đạt lợi nhuận cao(7). Bên cạnh đó, Tỉnh đã chỉ đạo địa phương tiếp tục hỗ trợ hộ nuôi vịt ở huyện Tháp Mười đạt các điều kiện để được Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận truy xuất nguồn gốc nhằm đảm bảo đủ tiêu chuẩn tiêu thụ tại thị trường này. Giá trị sản xuất ngành hàng vịt trong 6 tháng đầu năm 2018 đạt 296 tỷ đồng, tăng 3,65% so với cùng kỳ; đóng góp 0,02% tốc độ tăng trưởng chung của Tỉnh (tương đương 5,1 tỷ đồng).

Diện tích nuôi thuỷ sản tăng 289 ha, sản lượng tăng 6.755 tấn(8) so với cùng kỳ, do giá tiêu thụ thủy sản tăng cao. Riêng ngành hàng cá tra, toàn Tỉnh có 762,34/1.401 ha nuôi cá tra được cấp Giấy chứng nhận tiêu chuẩn an toàn, đa số hộ dân tiếp tục nuôi gia công cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra trong và ngoài tỉnh(9), nên lợi nhuận luôn ổn định. Ước giá trị sản xuất ngành hàng cá tra đạt 3.612 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 4,02% so với cùng kỳ; đóng góp 0,15% vào tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của Tỉnh (tương đương 31,8 tỷ đồng).

Kinh tế hợp tác tiếp tục được quan tâm củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, toàn Tỉnh có 168 hợp tác xã(10) đang hoạt động ổn định. Mô hình Hội quán tiếp tục phát triển, thể hiện được vai trò là trung tâm kết nối cộng đồng bên trong Hội quán và bên ngoài xã hội. Đến nay, đã thành lập 53 Hội quán gắn với từng ngành hàng đặc trưng của địa phương. Để tạo sự gắn kết giữa người dân với các nhà khoa học, các doanh nghiệp, Tỉnh đã hỗ trợ xây dựng website, điện thoại thông minh, máy vi tính, đường truyền cáp quang, tivi hoặc máy chiếu(11)… và thực hiện kết nối Hội nghị trực tuyến với các Hội quán, chuyển tải thông tin nhanh chóng và kịp thời(12). Ngoài ra, để kết nối kinh doanh giữa doanh nghiệp với các Hợp tác xã, Hội quán, Tỉnh đã tổ chức chuỗi hoạt động tham quan, tập huấn tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tham quan thực tế một số doanh nghiệp, chợ đầu mối để tìm hiểu thông tin về thị trường tiêu thụ nông sản, nhằm gắn kết giữa người sản xuất và người phân phối, giúp cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và công tác giảm nghèo bền vững đã đi vào cuộc sống, nhiều mô hình tương trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ thoát nghèo được nhân rộng(13), kết cấu hạ tầng nông thôn được tập trung đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước kết hợp huy động nguồn lực xã hội thông qua mô hình Nhà nước hỗ trợ vật tư, người dân góp ngày công lao động(14). Mô hình cộng đồng dân cư tham gia xây dựng nông thôn mới (thí điểm tại xã Mỹ Hội, huyện Cao Lãnh và xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh) đã phát huy tốt nhất tinh thần làm chủ của người dân trong giải quyết các vấn đề chung của xã hội. Trong 06 tháng đầu năm có thêm 05 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số lên 37/119 xã đạt tiêu chí nông thôn mới(15). Thành phố Sa Đéc đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. UBND Tỉnh chỉ đạo các sở, ngành Tỉnh phối hợp với huyện Tháp Mười phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới vào năm 2020.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, ngành nông nghiệp còn gặp một số khó khăn, như: Giá cá tra ở mức cao trong thời gian dài dẫn đến nhiều hộ dân đào ao nuôi cá ngoài vùng quy hoạch; giống một số cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp chưa đảm bảo chất lượng; một số loại hoa màu (ớt, khoai môn...) có giá tiêu thụ thấp làm người sản xuất gặp khó khăn; một số nhãn hiệu đã được công nhận nhưng chưa khai thác hiệu quả; các Hợp tác xã Nông nghiệp và Tổ hợp tác hoạt động chưa đa dạng, chủ yếu tập trung các dịch vụ đầu vào (cung ứng giống, bơm tưới, cày đất, bón phân…).

2. Sản xuất công nghiệp chuyển biến tích cực, hạ tầng công nghiệp được tập trung đầu tư

Các ngành, địa phương đã tích cực triển khai đề án Tái cơ cấu ngành công nghiệp, chủ động nắm bắt tình hình và nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhằm duy trì sản xuất nên hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến chủ lực của Tỉnh đều tăng(16). Một số doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư thiết bị, công nghệ mới nhằm giảm tiêu hao năng lượng, nhiên liệu, tiết kiệm chi phí sản xuất(17). Nhiều sản phẩm chế biến mang lại giá trị gia tăng cao như sản xuất thức ăn chăn nuôi thủy sản từ phụ phẩm da và xương cá tra; chiết xuất tinh dầu cám, gấc, sả quýt; chiết xuất tinh chất từ cây sen để sản xuất sản phẩm cao cấp trong lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm chức năng; đa dạng hóa sản phẩm chế biến từ nông sản như sữa sen, trà sen, xoài sấy, bánh tráng xoài, mãng cầu xiêm sấy... Ngoài ra, đã hướng dẫn 50 lượt tổ chức, cá nhân lập hồ sơ đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, kết quả có 06 văn bằng bảo hộ được Cục Sở hữu trí tuệ cấp. Ước giá trị sản xuất công nghiệp đạt 29.017 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 8,17% so với cùng kỳ; đóng góp 1,66% vào tăng trưởng chung của Tỉnh (tương đương 353 tỷ đồng).

Tỷ lệ lắp đầy bình quân 03 khu công nghiệp đạt 96,15%(18), tỷ lệ lắp đầy các cụm công nghiệp đạt trên 62,2%(19). Ngoài ra, Tỉnh đang hoàn chỉnh thủ tục đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp Tân Kiều; phối hợp với Viện Kinh tế nông nghiệp hữu cơ để thành lập Khu công nghiệp chế biến rau, củ, quả tại huyện Lấp Vò; thực hiện giải phóng mặt bằng Cụm công nghiệp Tân Lập; hoàn chỉnh hồ sơ thành lập Cụm công nghiệp Mỹ Hiệp 2... Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư vào khu kinh tế cửa khẩu chưa nhiều(20). Nguyên nhân do các nhà đầu tư chưa mạnh dạn đầu tư vào khu vực biên giới vì sợ rủi ro; các chính sách thu hút đầu tư không có sự ưu đãi khác biệt so với khu vực khác. Suất đầu tư công trình trên địa bàn cao đã ảnh hưởng đến kết quả thu hút đầu tư của Tỉnh.

Về đầu tư công, ngay từ đầu năm, UBND Tỉnh đã có quyết định phân bổ chi tiết các nguồn vốn đầu tư công năm 2018(21). Đến ngày 30/6/2018 giá trị giải ngân 983,078 tỷ đồng, đạt 20,71% kế hoạch (cùng kỳ đạt 29,4%). Nguyên nhân, giải ngân chậm là do quy trình thẩm tra, thẩm định, phê duyệt thiết kế và dự toán qua nhiều khâu dẫn đến chậm trễ tiến độ triển khai thực hiện dự án, vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; giá cát tăng, nguồn cung hạn chế làm ảnh hưởng đến tiến độ san lấp mặt bằng dự án.... UBND Tỉnh đã tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết 06 tháng đầu năm về xây dựng cơ bản và chỉ đạo các đơn vị đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch vốn đầu tư công trong thời gian tới.

3. Thương mại - dịch vụ ngày càng phát triển

a) Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế phát triển năng động

Sau Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2017, để tạo điều kiện cho nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án. Tỉnh đã chỉ đạo thành lập 4 nhóm công tác trên các lĩnh vực (nông nghiệp - công nghiệp chế biến, du lịch, hạ tầng - logistics và đô thị) để cung cấp các thông tin, rà soát hiện trạng, hoàn chỉnh các thủ tục về quy hoạch, đất đai... tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sớm hoàn tất thủ tục để triển khai dự án. Hiện có 22 dự án được trao quyết định chủ trương đầu tư hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tại Hội nghị đang hoàn chỉnh thủ tục để triển khai thực hiện theo quy định.

Chỉ số PCI năm 2017, Đồng Tháp tiếp tục nằm trong nhóm 03 tỉnh, thành phố dẫn đầu bảng xếp hạng cả nước, đứng đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là địa phương có 10 năm liên tục nằm trong nhóm có chất lượng điều hành cao nhất nước. Từ đầu năm đến nay, đã kêu gọi, tiếp và làm việc với 41 đoàn doanh nghiệp trong và ngoài nước đến tìm hiểu đầu tư tại Tỉnh(22), qua đó đã thu hút 12 dự án đầu tư mới với tổng vốn đăng ký khoảng 1.229 tỷ đồng. Đồng thời, Tỉnh đã nỗ lực tạo lập nhiều kênh hỗ trợ, tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình hoạt động, có 10 doanh nghiệp của Đồng Tháp được trao danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao năm 2018(23). Dự án cầu Cao Lãnh đưa vào khai thác, sẽ nối Đồng Tháp gần hơn với những vùng kinh tế năng động, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư.

Bên cạnh đó, Tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động thúc đẩy khởi nghiệp(24), thành lập Trung tâm Hỗ trợ Doanh nghiệp và Khởi nghiệp Tỉnh, hỗ trợ vốn và tư vấn chính sách tín dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng và Hỗ trợ khởi nghiệp Tỉnh... Nhờ đó đã có 303 doanh nghiệp thành lập mới, tổng vốn đăng ký gần 1.622 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động lên 3.500 doanh nghiệp. Trong đó, có 27 lao động làm việc ở nước ngoài hết thời hạn hợp đồng trở về địa phương tham gia khởi nghiệp.

Hạ tầng thương mại được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư(25), hệ thống phân phối hàng hoá ngày càng mở rộng và đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Các sản phẩm như: Trái cây, rau, củ, nem, bánh phồng tôm… tiếp tục được đưa vào hệ thống các siêu thị, cửa hàng tiện ích, cửa hàng nông sản sạch. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ ước đạt 42.930 tỷ đồng, tăng 9,02% so với cùng kỳ.

[...]