Kế hoạch 136/KH-UBND năm 2014 tuyển sinh và đào tạo trình độ đại học chính quy tại tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2014-2020

Số hiệu 136/KH-UBND
Ngày ban hành 12/08/2014
Ngày có hiệu lực 12/08/2014
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Hà Giang
Người ký Đàm Văn Bông
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Giáo dục

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------

Số: 136/KH-UBND

Hà Giang, ngày 12 tháng 08 năm 2014

 

KẾ HOẠCH

TUYỂN SINH VÀ ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY TẠI TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2014-2020

Căn cứ Quyết định số 2022/QĐ-UBND ngày 22/9/2011 của UBND tỉnh phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2011 - 2020;

Căn cứ Quyết định số 335/QĐ-UBND ngày 24/02/2014 của UBND tỉnh Hà Giang về việc ban hành Đề án nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tỉnh Hà Giang giai đoạn 2014 - 2020;

Thực hiện Công văn số 3859-CV/TU ngày 25 tháng 4 năm 2014 của Tỉnh ủy Hà Giang về việc chỉ đạo triển khai chủ trương đào tạo đại học chính quy tại tỉnh. Căn cứ thực trạng nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo nhân lực của các ngành, địa phương trong tỉnh, UBND tỉnh Hà Giang xây dựng Kế hoạch tuyển sinh và đào tạo trình độ đại học chính quy tại tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2014-2020.

l. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH TỈNH HÀ GIANG

1. Vị trí địa lý, cơ cấu hành chính và phân bố dân cư

Tỉnh Hà Giang có diện tích tự nhiên 7.914,8 km2, chiếm 2,4% diện tích tự nhiên của cả nước, đứng thứ 13/63 tỉnh, thành phố; có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Phía đông Hà Giang giáp tỉnh Cao Bằng, phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía tây nam giáp hai tỉnh Lào Cai, Yên Bái, phía tây bắc giáp với tỉnh Vân Nam và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Hà Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm 01 thành phố và 10 huyện), 195 đơn vị hành chính cấp xã. Theo Quyết định số 447/QĐ-UBND ngày 19/9/2013 của Ủy ban dân tộc về việc công nhận thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực I, II, III thuộc vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2012-2015, tỉnh Hà Giang có 140 xã vùng III, 1138 thôn đặc biệt khó khăn cần nhận được sự hỗ trợ đặc biệt từ các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.

Theo số liệu thống kê của Cục thống kê Hà Giang, tính đến hết năm 2013, tổng dân số toàn tỉnh là 778.958 người, trong đó dân tộc mông có 249.884 người, chiếm 32% tổng dân số toàn tỉnh, các dân tộc còn lại có số dân chiếm trên 10% tổng dân số toàn tỉnh lần lượt là Tày, Dao, Kinh, Nùng; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của năm 2012 là 1,76%[1].

Do đặc điểm lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục tập quán, dân cư tỉnh Hà Giang phân bố không đồng đều, sống phân tán, nhỏ lẻ, nhiều nhóm sống rải rác ở các vùng sâu, vùng xa, điều kiện cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội hết sức khó khăn, còn duy trì nhiều phong tục, tập quán lạc hậu. Tính đến hết năm 2013, tỉnh Hà Giang có 662.083 người đang sinh sống tại khu vực nông thôn (chiếm 85% tổng dân số), chỉ có 116.875 người sinh sống tại khu vực thành thị (chiếm 15% tổng dân số), chủ yếu tập trung tại thành phố Hà Giang và một số thị trấn của các huyện.

2. Thực trạng nguồn nhân lực tỉnh Hà Giang

a) Về trình độ đào tạo, năm 2011, tỉnh Hà Giang có trên 120 nghìn lao động (chiếm 33% tổng số lao động trên toàn tỉnh) đã qua đào tạo. Trong đó có 31.885 người (chiếm 8,76% lực lượng lao động) có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên, trong đó trình độ trung cấp chuyên nghiệp 12.016 người, trình độ cao đẳng 7.784 người, trình độ đại học 11.909 người và trình độ sau đại học 176 người.

Đến năm 2015, dự báo tổng nhu cầu lao động có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên sẽ là 50.386 người (chiếm 12,23% lực lượng lao động), trong đó trung cấp chuyên nghiệp 18.218 người; cao đẳng 14.552 người; đại học 17.226 người và sau đại học 390 người). Năm 2020, các con số tương ứng là 95.619 người (chiếm 19,82% lực lượng lao động), trong đó trung cấp chuyên nghiệp 35.034 người; cao đẳng 28.622 người; đại học 30.884 người và sau đại học 1.039 người.

Đối với hệ dạy nghề, năm 2011, tỉnh Hà Giang có 88.125 người đã qua đào tạo (chiếm 24,22% tổng lực lượng lao động), trong đó dạy nghề dưới 3 tháng 41.586 người, sơ cấp nghề 16.670 người, trung cấp nghề 27.852 người, cao đẳng nghề 2.017 người[2].

Đến năm 2015, dự báo tổng nhu cầu lao động qua đào tạo nghề là 135.014 người (chiếm 32,77%) trong đó dạy nghề dưới 3 tháng 58.636 người, sơ cấp nghề 31.455 người, trung cấp nghề 40.590 người, cao đẳng nghề 4.333 người. Năm 2020, các con số tương ứng là 193.831 người (chiếm 40,18%), trong đó dạy nghề dưới 3 tháng 75.263 người, sơ cấp nghề 51.584 người, trung cấp nghề 55.623 người, cao đẳng nghề 11.361 người.

b) Về cơ cấu lao động, tỉnh Hà Giang có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn. Theo số liệu thống kê, năm 2013, nhóm lao động từ 15 tuổi trở lên có tổng số 499.138 người, trong đó có 427.924 người (chiếm 85,73%) đang làm việc tại khu vực nông thôn[3].

3. Hiện trạng công tác giáo dục, đào tạo trên địa bàn tỉnh Hà Giang

a) Về công tác giáo dục phổ thông: Tính đến hết tháng 5 năm 2014, toàn tỉnh có 166 trường Trung học cơ sở với 45.857 học sinh; 22 trường Trung học phổ thông, 09 trường Cấp 2-3, 11 trung tâm Giáo dục thường xuyên với tổng cộng 19.536 học sinh THPT và tương đương. Hàng năm, tỉnh Hà Giang có trên 6.000 học sinh tham dự kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông với tỷ lệ thi đỗ đạt trên 90%.

b) Về công tác giáo dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề: Tính đến hết năm 2013, trên địa bàn tỉnh Hà Giang có 01 trường CĐSP, 02 trường TCCN, 01 trường Cao đẳng nghề, 01 trường Trung cấp nghề và 10 trung tâm dạy nghề cấp huyện. Các ngành nghề đào tạo được mở rộng, chuyển dịch theo hướng đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của xã hội; năm 2008, có 08 ngành đào tạo trình độ cao đẳng sư phạm, 19 ngành đào tạo trình độ TCCN, 12 mã nghề trung cấp; đến năm 2013, có 13 ngành đào tạo trình độ cao đẳng, 20 ngành đào tạo trình độ TCCN, có 04 nghề trình độ cao đẳng, 12 nghề trình độ trung cấp, 15 mã nghề sơ cấp.

Số học sinh, sinh viên đăng ký tuyển sinh và trúng tuyển vào các cơ sở đào tạo, dạy nghề trong tỉnh hằng năm đều ổn định và gia tăng ở một số ngành như y tế, sư phạm, các nghề thú y, trồng cây lương thực thực phẩm, công nghệ thông tin…; các cơ sở đào tạo đều tuyển đúng đối tượng, nhiều ngành đủ chỉ tiêu được giao hằng năm; tỷ lệ học sinh, sinh viên, học viên tốt nghiệp đạt loại khá, giỏi tăng đều qua các năm (năm 2008 có 24%, năm 2012 đạt 33%). Học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường cơ bản đáp ứng được yêu cầu của công việc, tương xứng với trình độ đào tạo[4].

Do tỉnh Hà Giang chưa có cơ sở đào tạo trình độ đại học, trong những năm qua, học sinh của tỉnh Hà Giang muốn theo học các ngành đào tạo đại học hệ chính quy đều phải đăng ký dự thi và theo học tại các cơ sở đào tạo ngoài tỉnh. Số hồ sơ đăng ký dự thi đại học, cao đẳng hàng năm đều duy trì ổn định ở mức trên 6.000 lượt hồ sơ. Trong đó số học sinh trúng tuyển và theo học tại các cơ sở đào tạo duy trì ổn định ở mức trên 6000 học sinh (chiếm khoảng 10% tổng số học sinh tốt nghiệp THPT) đối với trình độ đại học và trên 900 học sinh (chiếm khoảng 15% tổng số học sinh tốt nghiệp THPT) đối với trình độ cao đẳng.

Đặc biệt, trong hai năm 2012 và 2013, thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực cho các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (gọi tắt là các huyện 30a), đã có 2007 lượt hồ sơ đăng ký tuyển thẳng trình độ đại học, cao đẳng, trong đó có 255 học sinh đủ điều kiện và được các cơ sở đào tạo đồng ý tiếp nhận vào học.

Từ những minh chứng trên đây, có thể nhận thấy, việc lựa chọn một số chuyên ngành, tổ chức hoạt động đào tạo trình độ đại học tại tỉnh Hà Giang là hết sức cần thiết, góp phần tạo cơ hội học tập cho học sinh, định hướng ngành nghề đào tạo, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Giang và các tỉnh trong khu vực.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát

- Giảm bớt khó khăn trong việc tiếp cận các hoạt động đào tạo trình độ đại học, nâng cao cơ hội theo học đại học đối với học sinh của tỉnh Hà Giang.

- Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học ở một số lĩnh vực, ngành nghề cụ thể, góp phần hiện thực hóa chủ trương đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Giang trong tương lai.

[...]