Công văn số 929/TCT-TS của Tổng cục Thuế về việc chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất

Số hiệu 929/TCT-TS
Ngày ban hành 14/03/2006
Ngày có hiệu lực 14/03/2006
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Thuế
Người ký Phạm Duy Khương
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí,Bất động sản

TỔNG CỤC THUẾ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 929/TCT-TS
V/v: Miễn giảm tiền sử dụng đất

Hà Nội, ngày 14 tháng 03 năm 2006

 

Kính gửi:

 - Ông Nguyễn Văn Dũng
Phường Nghi Thủy, Thị xã Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An
 - Cục thuế tỉnh Nghệ An

 

Trả lời Đơn thư đề ngày 03/02/2006 của ông Nguyễn Văn Dũng (trú tại phường Nghi Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An) về chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

1. Theo Điểm 1.6, Khoản 1, Mục C Thông tư 115/2000/TT-BTC ngày 11/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 38/2000/NĐ-CP ngày 23/8/2000 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất thì: “Người được xét miễn giảm tiền sử dụng đất phải là người có tên trong hộ khẩu gia đình có chung quyền sử dụng đất hoặc là người được giao đất…”. Như vậy, người được xét miễn giảm tiền sử dụng đất ở trường hợp giao đất cho hộ gia đình, không nhất thiết phải là người đứng tên trong quyết định giao đất; đồng thời khi người sử dụng đất chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính (thời Điểm cơ quan Thuế đang thực hiện xem xét miễn giảm tiền sử dụng đất) thì hộ gia đình đó chưa được cơ quan quản lý nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên nếu cơ quan Thuế yêu cầu đối tượng thuộc diện miễn giảm tiền sử dụng đất cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để chứng minh người thuộc diện miễn giảm có “chung quyền sử dụng đất” với người được giao đất là không thể thực hiện được và trái quy định.

Do đó, nội dung Công văn số 308/TCT-TS ngày 20/01/2006 của Tổng cục Thuế trả lời Cục thuế tỉnh Nghệ An và Ủy ban nhân dân thị xã Cửa Lò đối với “trường hợp người bố là thương binh thuộc đối tượng được giảm tiền sử dụng đất, có chung hộ khẩu gia đình với người con có quyết định giao đất, đồng thời có tên trong hộ gia đình được giao đất do người con đứng tên trong quyết định giao đất và chưa được miễn giảm tiền sử dụng đất lần nào thì hộ gia đình này được giảm tiền sử dụng đất theo quy định” là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Những trường hợp “cán bộ thực hiện” giải thích với ông như đã nêu trong đơn thư của ông không thuộc nội dung quy định tại Nghị định số 38/2000/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư số 115/2000/TT-BTC nêu trên.

2. Về nội dung trả lời của Tổng cục Thuế tại các Công văn số 3277 TCT/NV7 ngày 11/9/2003 gửi Cục Thuế tỉnh Kon Tum, Công văn số 846 TCT/VN7 ngày 10/3/2003 gửi Cục Thuế tỉnh Gia Lai, Công văn số 3571 TCT/VN7 ngày 03/10/2003 và Công văn số 308/TCT-TS ngày 20/01/2006 gửi Cục thuế tỉnh Nghệ An là hoàn toàn nhất quán, phù hợp với quy định của pháp luật về thu tiền sử dụng đất hiện hành.

Các công văn nêu trên không hướng dẫn thực hiện riêng cho một hay một số trường hợp cụ thể nào, mà là để các Cục Thuế triển khai áp dụng thống nhất đối với tất cả các trường hợp tương tự tại địa phương. Trường hợp thời gian qua, Cục Thuế tỉnh Nghệ An giải quyết miễn, giảm tiền sử dụng đất trái với Nghị định số 38/2000/NĐ-CP và Thông tư số 115/2000/TT-BTC nêu trên thì người sử dụng đất có quyền khiếu nại theo Điều 18 và Điều 19 Nghị định số 38/2000/NĐ-CP nêu trên.

Tổng cục Thuế trả lời để ông Nguyễn Văn Dũng biết./.

 

Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng Bộ Tài chính (để b/c);
- Văn phòng, Thanh tra Bộ Tài chính;
- UBND thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An;
- Lưu: VT, TS.

KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG



 
Phạm Duy Khương