Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Dự án xây dựng công trình đường
bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 được Quốc hội, Chính phủ
ban hành các Nghị quyết1 triển khai với nhiều cơ
chế đặc thù. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ
lực của Bộ Giao thông vận tải (GTVT), sự phối hợp có trách nhiệm của các bộ,
ngành, các địa phương, toàn bộ 12 dự án thành phần đã được khởi công từ ngày
01/01/2023. Ngay sau khi khởi công, Bộ GTVT đã quyết liệt chỉ đạo các đơn vị
tranh thủ điều kiện thời tiết thuận lợi, tập trung tối đa nguồn lực để tổ chức
thi công với mục tiêu năm 2023 sẽ hoàn thành 35% giá trị hợp đồng. Tuy nhiên,
do khó khăn về nguồn vật liệu xây dựng (VLXD), giá trị sản lượng sau nửa năm
thi công chỉ đạt khoảng 5% giá trị hợp đồng, chậm khoảng 5% (theo kế hoạch 6
tháng đầu năm phải đạt 10%). Để đảm bảo nguồn vật liệu cho dự án, Thủ tướng
Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã hết sức quan tâm, trực tiếp
kiểm tra hiện trường, ban hành các văn bản, công điện, chỉ thị để chỉ đạo các bộ,
ngành và địa phương hướng dẫn và triển khai thủ tục cấp phép, nâng công suất
các mỏ bảo đảm nguồn vật liệu cho dự án; giao Bộ trưởng Bộ GTVT thành lập Tổ
công tác kiểm tra, làm việc với các tỉnh, thành phố thuộc khu vực dự án để kịp
thời xử lý các vướng mắc liên quan đến khai thác, cung ứng VLXD. Thực hiện chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ GTVT đã thành lập 02 Tổ công tác do
02 đồng chí Thứ trưởng Bộ GTVT là Tổ trưởng, Tổ phó là đại diện Bộ Tài nguyên
và Môi trường (TN&MT), các thành viên là đại diện các Bộ: Xây dựng; Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT); Công an. Trong các ngày từ
03/7/2023 đến ngày 07/7/2023, Tổ công tác đã kiểm tra hiện trường khu vực mỏ,
làm việc trực tiếp với Ủy ban nhân dân các tỉnh (UBND), thành phố từ Hà Tĩnh tới
Khánh Hòa và các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long để nắm bắt tình hình cung ứng
VLXD phục vụ thi công các dự án thành phần và các khó khăn, vướng mắc để giải
quyết theo thẩm quyền, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ tháo gỡ.
Sau khi kiểm tra, làm việc, Tổ
công tác tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ như sau:
1. Nhu cầu
sử dụng và tình hình cung cấp vật liệu cho các dự án thành phần cao tốc Bắc -
Nam giai đoạn 2021 - 2025
1.1. Các dự án thành phần đoạn
từ tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Khánh Hòa2
a) Vật liệu đá: Tổng nhu cầu dự
án cần khoảng 17,37 triệu m3, chủ yếu lấy từ các mỏ đang khai thác với tổng
công suất khai thác hiện nay khoảng 9,56 triệu m3/năm. Theo tiến độ dự án, nhu
cầu vật liệu đá đến thời điểm này chưa nhiều do các dự án chủ yếu đang thi công
các hạng mục bê tông xi măng, vì vậy công suất khai thác hiện nay của các mỏ cơ
bản đáp ứng. Tuy nhiên đến giai đoạn thi công hạng mục móng, mặt đường, nhu cầu
sử dụng vật liệu đá rất lớn và tập trung trong thời gian ngắn nên cần nâng công
suất các mỏ để đáp ứng tiến độ thi công.
b) Vật liệu cát: Tổng nhu cầu dự
án cần khoảng 9,67 triệu m3, trong đó 4,29 triệu m3 được sử dụng từ 82 mỏ đang
khai thác với tổng trữ lượng khoảng 11,32 triệu m3, tổng công suất khai thác khoảng
1,70 triệu m3/năm. Còn lại 5,38 triệu m3 được sử dụng từ 16 mỏ chưa khai thác
có tổng trữ lượng 10,06 triệu m3.
- Đối với các mỏ đang khai
thác, công suất các mỏ trên địa phận một số tỉnh cơ bản đáp ứng nhu cầu do chủ
yếu sử dụng cát cho hạng mục bê tông xi măng. Riêng các mỏ trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh, Bình Định, Phú Yên (sử dụng cho công tác xử lý nền đất yếu) và một số mỏ
trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đã hết hạn thời gian khai thác, tạm dừng khai thác
nên chưa đáp ứng do còn cung cấp cho các dự án của địa phương. Các chủ đầu tư,
nhà thầu đang phối với với chủ mỏ và các cơ quan chức năng của địa phương kiến
nghị UBND các tỉnh nâng công suất 39 mỏ, gia hạn giấy phép 05 mỏ để đảm bảo đủ
nhu cầu cho các dự án thành phần đoạn qua địa bàn tỉnh3.
- Đối với mỏ mới giao nhà thầu
khai thác theo cơ chế đặc thù: Đến nay các nhà thầu đã trình 13/16 hồ sơ4 đăng ký khối lượng khai thác với tổng trữ lượng
5,65 triệu m3; UBND các tỉnh đã xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 02/135 mỏ cho các nhà thầu với tổng trữ lượng 1,13 triệu
m3, tuy nhiên đến nay các nhà thầu chưa khai thác được cát do các địa phương
đang điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hoàn thiện thủ tục thuê đất, dự
kiến cuối tháng 7/2023 mới có thể khai thác được. Khối lượng cát cần lấy từ các
mỏ mới là rất lớn và chủ yếu phục vụ cho công tác xử lý nền đất yếu, thủ tục
khai thác mỏ đang chậm, trong khi mùa mưa, lũ đã đến gần, nếu không khai thác
được ngay sẽ làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ, kế hoạch triển khai thi công của
các nhà thầu.
c) Vật liệu đất: Tổng nhu cầu dự
án cần khoảng 47,09 triệu m3, trong đó 5,14 triệu m3 được sử dụng từ 21 mỏ đang
khai thác với tổng trữ lượng khoảng 8,52 triệu m3, tổng công suất khai thác khoảng
2,54 triệu m3/năm. Còn lại 41,96 triệu được sử dụng từ 71 mỏ chưa khai thác có
tổng trữ lượng 61,37 triệu m3.
- Đối với các mỏ đang khai
thác, công suất cơ bản đáp ứng nhu cầu, chỉ có 02 mỏ trên địa phận tỉnh Hà Tĩnh
công suất chưa đáp ứng, hiện các nhà thầu đang kiến nghị địa phương nâng công
suất để đáp ứng đủ nhu cầu vật liệu theo tiến độ thi công dự án thành phần đoạn
Bãi Vọt - Hàm Nghi.
- Đối với mỏ mới giao nhà thầu
khai thác theo cơ chế đặc thù: Đến nay các nhà thầu đã trình 55/71 hồ sơ đăng
ký khối lượng khai thác với tổng trữ lượng 53,31 triệu m3; UBND các tỉnh đã xác
nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 26/556 mỏ với
tổng trữ lượng 32,02 triệu m3 cho các nhà thầu, đáp ứng khoảng 68% nhu cầu dự
án. Tuy nhiên đến nay các nhà thầu mới khai thác được đất từ 09/267 mỏ với tổng trữ lượng khoàng 6,41 triệu m3 chỉ đáp
ứng khoảng 15% nhu cầu. Các mỏ còn lại chưa khai thác được do việc thương thảo
với chủ sở hữu đất về giá chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng
quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Điều
73 Luật Đất đai gặp nhiều khó khăn; một số mỏ phải thực hiện các thủ tục
chuyển mục đích sử dụng rừng, mục đích sử dụng đất.
1.2. Các dự án thành phần đoạn
từ thành phố Cần Thơ đến Cà Mau8
Tổng nhu cầu vật liệu của 02 dự
án thành phần đoạn từ thành phố Cần Thơ đến Cà Mau: Tổng khối lượng đá các loại
khoảng 1,37 triệu m3; tổng khối lượng đất đắp khoảng 1,7 triệu m3; tổng khối lượng
cát đắp nền khoảng 18,07 triệu m3 (năm 2023 cần 9,11 triệu m3, năm 2024 cần
6,97 triệu m3, năm 2025 cần 1,99 triệu m3). Đối với vật liệu đá, đất đã khảo
sát đủ trữ lượng, chất lượng, công suất khai thác đáp ứng nhu cầu các dự án
thành phần.
Đối với vật liệu cát, để đảm bảo
nguồn vật liệu theo tiến độ thi công, ngay từ tháng 6/2022, Bộ GTVT đã chủ động
làm việc và có các văn bản gửi tỉnh An Giang, Đồng Tháp9
đề nghị cung cấp cát cho Dự án. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh An Giang đã thống nhất10 cung cấp cho dự án 1,1 triệu m3 từ các mỏ đang
khai thác, tỉnh Đồng Tháp thống nhất11 cung cấp
1,89 triệu m3.
Để bảo đảm đủ nguồn cát đắp cho
Dự án, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã hết sức
quan tâm, trực tiếp kiểm tra, làm việc và chỉ đạo các tỉnh dành sự ưu tiên bố
trí đủ nguồn vật liệu để đẩy nhanh tiến độ; chỉ đạo Bộ TN&MT phân bổ, điều
tiết đối với từng mỏ, từng địa bàn phù hợp tiến độ thi công; hướng dẫn các địa
phương thủ tục cấp phép các mỏ, nâng công suất các mỏ để cấp cho dự án. Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành 02 Công điện (Công điện số 194/CĐ-TTg ngày 01/4/2023;
Công điện số 573/CĐ-TTg ngày 21/6/2023) và có Thông báo số 175/TB-VPCP ngày
11/5/2023, văn bản số 3926/VPCP-CN ngày 31/5/2023 về việc điều phối vật liệu
cát san lấp các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong đó giao chỉ tiêu
cho các tỉnh An Giang (7,0 triệu m3, năm 2023 là 3,3 triệu m3), Đồng Tháp (7,0
triệu m3, năm 2023 là 3,3 triệu m3), Vĩnh Long (5,0 triệu m3, năm 2023 là 2,5
triệu m3), ưu tiên bố trí ngay nguồn cát đắp cho dự án cao tốc Cần Thơ - Cà
Mau.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, đến nay các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long đã bố trí
nhu cầu cát cho 02 dự án thành phần đoạn từ thành phố Cần Thơ đến Cà Mau như
sau:
a) Tỉnh An Giang: Đã có văn bản
số 795/UBND-KTN ngày 03/7/2023 cung cấp 1,1 triệu m3 cát cho Dự án từ 04 mỏ
đang khai thác, hiện các Nhà thầu đang làm thủ tục ký hợp đồng với các chủ mỏ,
dự kiến ngày 10/7/2023 sẽ bắt đầu cung cấp cát cho dự án. Đối với 2,2 triệu m3
cát còn lại của năm 2023, Sở TN&MT tỉnh An Giang đã có văn bản gửi UBND tỉnh
đề xuất lấy từ các mỏ đang khai thác, UBND tỉnh đang xem xét để quyết định; đối
với 3,7 triệu m3 năm 2024, hiện UBND tỉnh chưa có phương án cung cấp cho dự án.
b) Tỉnh Đồng Tháp: Đã có văn bản
số 251/UBND-ĐTXD ngày 29/6/2023 thống nhất cấp đủ cho dự án 7,0 triệu m3. Trong
đó, đã cấp cho Dự án 0,371 triệu m3 từ nguồn tăng 50% công suất các mỏ đang
khai thác và sẽ tiếp tục cấp 0,5 triệu m3 từ các mỏ đang khai thác; còn lại
1,52 triệu m3 sẽ cấp từ 02 mỏ mới (thực tế chỉ khai thác được khoảng 0,4 triệu
m3 trong năm 2023) và 5,1 triệu m3 từ 4 mỏ đã hết hạn thời gian khai thác (dự
kiến khai thác được thêm 2 triệu m3 trong năm 2023), bảo đảm đủ 3,3 triệu m3
theo nhu cầu năm 2023. Hiện nay, các Nhà thầu đang phối hợp với các cơ quan của
địa phương hoàn thiện thủ tục khai thác mỏ mới, dự kiến có thể khai thác vào đầu
tháng 10/2023.
c) Tỉnh Vĩnh Long: Trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long hiện có 05 mỏ với trữ lượng khoảng 5,0 triệu m3 đảm bảo chất lượng
yêu cầu. Hiện nay, Chủ đầu tư và các Nhà thầu đã chủ động làm việc với Sở
TN&MT để triển khai các thủ tục khai thác mỏ. Sở TN&MT đã trình UBND tỉnh
đề xuất giao 02 mỏ có trữ lượng khoảng 1,8 triệu m3 cho Dự án, đối với 3 mỏ còn
lại, sở TN&MT đang xem xét để trình UBND tỉnh Vĩnh Long quyết định giao cho
Nhà thầu khai thác, theo báo cáo của sở TN&MT, dự kiến có thể khai thác và
cấp cho dự án trong tháng 10/2023.
Như vậy, đến nay các tỉnh đã bố
trí cho dự án được 1,471 triệu m3, nếu tiếp tục quyết định cung cấp cát từ các
mỏ đang khai thác cho Dự án (An Giang 2,2 triệu m3, Đồng Tháp 0,5 triệu m3) sẽ
có thêm 2,7 triệu m3, đủ điều kiện để triển khai thi công đến hết tháng 9/2023.
Đến tháng 10/2023, khi tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp hoàn thành các thủ tục cấp mỏ
mới sẽ đảm bảo nhu cầu 9,1 triệu m3 trong năm 2023.
2. Công tác
phối hợp của các cấp chính quyền địa phương
- Cơ bản các địa phương đã hướng
dẫn các Nhà thầu về thành phần hồ sơ, trình tự các bước thực hiện, thủ tục đăng
ký khối lượng khai thác tuân thủ quy định tại Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày
29/11/2016 của Chính phủ và các hướng dẫn của Bộ TN&MT12, tuy nhiên, thời gian thẩm định một số hồ sơ thực tế lâu hơn
quy định13 và chưa có hướng dẫn trình tự các bước
thực hiện các thủ tục về đất đai (chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận
góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh). Riêng tỉnh Quảng Ngãi
cấp giấy phép khai thác theo đúng quy định của Luật Khoáng sản.
- Các cấp chính quyền địa
phương đã phối hợp với các Chủ đầu tư, nhà thầu trong quá trình thỏa thuận với
các chủ sở hữu đất khu vực mỏ, tuân thủ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại
Công điện số 194/CĐ-TTg ngày 01/4/2023. Tuy nhiên hiệu quả còn chưa cao, cách làm
chưa thống nhất14, trong khi các mỏ thuộc khu vực
đất do tư nhân quản lý, việc thỏa thuận đang gặp nhiều khó khăn do mức giá cao
hơn đơn giá đền bù hỗ trợ của nhà nước; chủ sở hữu yêu cầu chuyển nhượng hoặc thuê
toàn bộ diện tích mỏ lớn hơn diện tích cần khai thác nhưng các quy định của
pháp luật hiện chưa có chế tài để xử lý. Các mỏ đã khai thác được chủ yếu nằm
trong khu vực đất công hoặc đất của người dân có nhu cầu hạ cốt nền, công tác
thỏa thuận giá thuê quyền sử dụng đất không có nhiều vướng mắc.
3. Công tác
quản lý giá vật liệu
- Về công bố giá VLXD: Theo báo
cáo của Bộ Xây dựng, giá nguyên, nhiên, VLXD 6 tháng đầu năm ổn định và chỉ dao
động nhẹ. Đa số các địa phương nơi dự án đi qua đã chủ động khảo sát, xác định,
công bố giá VLXD, chỉ số giá đúng quy định.
- Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại Công điện số 194/CĐ-TTg ngày 01/4/2023, một số địa phương15 đã thành lập các Đoàn thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm công tác tham mưu quản lý nhà nước đối với các mỏ VLXD; việc lập, đăng ký
giá, thẩm định và công bố giá VLXD trên địa bàn tỉnh; làm việc với các cơ quan
quản lý nhà nước có liên quan đến công tác cấp phép, công bố giá VLXD, đồng thời
kiểm tra, làm việc với các đơn vị được cấp phép khai thác về việc niêm yết giá
và bán đúng giá niêm yết. Theo báo cáo của các địa phương, đến nay việc công bố
giá đang được các cơ quan chức năng của địa phương thực hiện theo quy định,
chưa phát hiện tình trạng nâng giá, ép giá, bán vật liệu cao hơn giá niêm yết,
công bố.
- Theo quy định hiện hành về quản
lý chi phí, giá vật liệu được xác định theo thông báo giá của địa phương hoặc
báo giá của nhà cung ứng. Tuy nhiên đối với Dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông
giai đoạn 2021 - 2025 được áp dụng cơ chế đặc thù trong khai thác khoáng sản
làm VLXD thông thường, việc xác định giá vật liệu khai thác tại mỏ phụ thuộc
vào giá thỏa thuận với chủ sở hữu đất khu vực mỏ (giá chuyển nhượng, thuê quyền
sử dụng đất, hỗ trợ hòa màu trên đất) nhưng giá thỏa thuận giữa các chủ sở hữu
còn chưa thống nhất, chênh lệch lớn và chưa có hướng dẫn cụ thể về giá thỏa thuận,
khó khăn cho công tác quản lý chi phí của các chủ đầu tư.
4. Đánh giá
của Tổ công tác
Dự án xây dựng công trình đường
bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 đã được Quốc hội, Chính phủ
cho phép trong 2 năm 2022 và 2023 được áp dụng các cơ chế đặc thù trong khai
thác khoáng sản làm VLXD thông thường và đã được Bộ TN&MT hướng dẫn các địa
phương tổ chức triển khai thực hiện. Ngay từ bước lập dự án đầu tư, Bộ GTVT đã
chỉ đạo các chủ đầu tư, tư vấn phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công
tác khảo sát vị trí, trữ lượng, chất lượng của các mỏ vật liệu đảm bảo đáp ứng
nhu cầu. Sau khi khởi công từ đầu năm 2023, các chủ đầu tư, nhà thầu đã phối hợp
với các cấp chính quyền và cơ quan chức năng của địa phương chủ động lập hồ sơ
đăng ký khối lượng khai thác theo hướng dẫn của Bộ TN&MT tại văn bản số
1441/BTNMT-ĐCKS ngày 18/3/2022. Tuy nhiên, thời gian đầu, hầu hết các địa
phương còn lúng túng và chưa kịp thời có văn bản hướng dẫn các nhà thầu trình tự
thủ tục. Thời gian thực hiện công tác lập, thẩm định, xác nhận bản đăng ký khối
lượng khai thác còn kéo dài, một số địa phương vẫn có các yêu cầu khác với hướng
dẫn của Bộ TN&MT (thăm dò, xác định trữ lượng khoáng sản, yêu cầu đánh giá
tác động môi trường, đấu giá quyền khai thác khu vực đất công…) làm phát sinh
thủ tục hành chính.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại Công điện số 57/CĐ-TTg ngày 19/2/2023, Bộ GTVT đã tổng hợp các
khó khăn, vướng mắc gửi Bộ TN&MT tại văn bản số 4884/BGTVT-CQLXD ngày
12/5/2023. Bộ TN&MT đã có văn bản số 4766/BTNMT-KSVN ngày 20/6/2023 và văn
bản số 5306/BTNMT-KSVN ngày 07/7/2023 hướng dẫn, làm rõ hơn trình tự, thủ tục
khai thác khoáng sản làm VLXD thông thường. Đồng thời theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại Công điện số 194/CĐ-TTg ngày 01/4/2023, các địa phương đã quyết
liệt vào cuộc, tích cực phối hợp với các chủ đầu tư, nhà thầu trong việc hoàn
thiện thủ tục khai thác vật liệu phục vụ các dự án. Đến nay trình tự thủ tục cơ
bản không còn vướng mắc, tình hình cung ứng VLXD cho dự án cao tốc Bắc - Nam
phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 bước đầu đã đạt được một số kết quả tích cực
nhưng còn chậm so với yêu cầu, đặc biệt là các thủ tục về đất đai làm ảnh hưởng
đến tiến độ dự án. Các vướng mắc trong quá trình thực hiện, cụ thể như sau:
- Một số mỏ giao cho Nhà thầu
khai thác phải thực hiện thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng rừng (CMĐSDR),
chuyển mục đích sử dụng đất và phải thông qua Hội đồng nhân dân (dự kiến họp từ
ngày 12-21/7/2023)16. Để thực hiện việc này mất
rất nhiều thời gian, thường Nhà thầu không chủ động được.
- Một số mỏ qua khu vực rừng trồng,
cần phải thực hiện CMĐSDR nhưng địa phương không có quỹ đất trồng rừng thay thế
(như tỉnh Bình Định) phải nộp tiền trồng rừng thay thế về Quỹ bảo vệ và phát
triển rừng Việt Nam (Thông tư số 25/2022/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2022 của Bộ
NN&PTNT), theo quy định, thủ tục rất phức tạp : (1) UBND tỉnh trình Bộ
NN&PTNN; (2) Bộ NN&PTNN rà soát các tỉnh khác trên cả nước có nhu cầu;
(3) Yêu cầu tỉnh có nhu cầu lập dự toán kinh phí trồng rừng và phê duyệt; (4) Bộ
NN&PTNN xác nhận cho địa phương cần nộp tiền về Quỹ; (5) UBND tỉnh thực hiện
công việc nộp tiền về Quỹ; (6) Quyết định CMĐSDR. Thực tế, tỉnh Bình Định đã gửi
hồ sơ đến Bộ NN&PTNT từ tháng 3/202317 nhưng
đến nay (khoảng 96 ngày) chưa xong thủ tục thông báo số tiền trồng rừng thay thế
phải nộp do phụ thuộc rất lớn vào các tỉnh có quỹ đất đăng ký trồng rừng thay
thế.
- Các Nghị quyết của Quốc hội,
Chính phủ chưa cho phép áp dụng cơ chế đặc thù trong việc nâng công suất các mỏ
cát đang khai thác khu vực các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Khánh Hòa, vì vậy, các địa
phương chưa triển khai các thủ tục nâng công suất để bảo đảm nguồn vật liệu cát
cho các dự án.
- Đối với các mỏ mới giao nhà
thầu khai thác theo cơ chế đặc thù, Nghị quyết của Quốc hội và các Nghị quyết của
Chính phủ đều yêu cầu nhà thầu thi công thực hiện đánh giá tác động môi trường
nhưng theo các hướng dẫn của Bộ TN&MT nhà thầu không phải lập Báo cáo đánh
giá tác động môi trường, chỉ thực hiện cam kết bảo vệ môi trường và thực hiện cải
tạo, phục hồi môi trường. Vì vậy các địa phương có tâm lý e ngại, cho rằng các
văn bản hướng dẫn của Bộ TN&MT không đủ căn cứ pháp lý để thực hiện.
- Sau khi UBND các tỉnh xác nhận
bản đăng ký khối lượng khai thác, các nhà thầu còn phải tiếp tục thực hiện các
thủ tục về đất đai như thương thảo với chủ đất về phương án, giá chuyển nhượng,
thuê quyền sử dụng đất…, trong quá trình thương thảo, nhiều chủ đất yêu cầu mức
giá cao hơn nhiều lần mức giá đền bù, hỗ trợ theo quy định dẫn đến việc đàm
phán, thỏa thuận không thành công, nhiều nhà thầu phải chủ động khảo sát các mỏ
mới không nằm trong hồ sơ khảo sát VLXD phục vụ dự án làm ảnh hưởng đến thời
gian, tiến độ do phải hoàn thiện hồ sơ, thủ tục.
- Các nhà thầu thi công lập hồ
sơ còn chậm, phải bổ sung, hoàn thiện trong quá trình các địa phương rà soát,
thẩm định.
- Các khu vực mỏ khoáng sản làm
VLXD thông thường đã được các địa phương quy hoạch, đưa vào Hồ sơ khảo sát VLXD
phục vụ Dự án, tuy nhiên một số địa phương chưa chủ động thực hiện điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất18 nên sau khi được
giao mỏ phải mất thêm nhiều thời gian các nhà thầu mới có thể khai thác được19.
- Các sở, ban, ngành của địa
phương chưa chủ động hướng dẫn nhà thầu xử lý kịp thời các tình huống phát sinh
và linh hoạt khi thực hiện các thủ tục nên một số mỏ sau khi hoàn thành các thủ
tục không đủ điều kiện để UBND tỉnh xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác,
một số mỏ có thể cho phép khai thác từng phần nhưng chưa được xử lý20.
- Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 94/2019/NĐ-CP ngày 13/12/2019 của Chính phủ
về quy định chi tiết một số điều của Luật Trồng trọt về giống cây trồng và canh
tác: Đối với đất được chuyển đổi từ đất chuyên trồng lúa nước phải bóc riêng tầng
đất mặt để sử dụng vào mục đích nông nghiệp và phải xây dựng phương án sử dụng
tầng đất mặt theo quy định; phương án sử dụng tầng đất mặt là thành phần hồ sơ
xin phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên tại một số địa phương21, quỹ đất, nhân lực hạn hẹp và không có nhu cầu sử
dụng nên chưa có phương án tiếp nhận, quản lý tầng đất mặt, dẫn đến việc triển
khai của các Nhà thầu gặp nhiều khó khăn.
- Theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại Thông báo số 175/TB-VPCP ngày 11/5/2023, UBND các tỉnh nơi dự án
đi qua khẩn trương tiếp tục thực hiện việc CMĐSDR, chuyển mục đích sử dụng đất
để đảm bảo tiến độ GPMB. Tuy nhiên tại văn bản số 2060/BNN-TCLN ngày 04/4/2023,
Bộ NN&PTNT yêu cầu phải thực hiện điều chỉnh chủ trương CMĐSDR trước khi
CMĐSDR đối với phần diện tích tăng thêm và nằm ngoài phạm vi đã được Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 273/NQ-UBTVQH15 ngày 11/7/2022 và tại
văn bản số 3828/BNN-KL ngày 13/6/2023, Bộ NN&PTNT tiếp tục đề nghị các địa
phương tổ chức thẩm định hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương
CMĐSDR theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Vì vậy, đến nay sau khi cập
nhật phạm vi GPMB theo TKKT được duyệt, phần diện tích tăng thêm, phần diện
tích nằm ngoài phạm vi chưa được các địa phương thực hiện CMĐSDR làm ảnh hưởng
đến tiến độ GPMB và tiến độ thi công dự án.
- Theo quy định tại Nghị quyết
số 119/2022/NQ-CP của Chính phủ “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và người
có thẩm quyền tổ chức thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư áp dụng hình
thức chỉ định thầu trong 2 năm 2022 và 2023 đối với gói thầu thực hiện đền bù,
giải phóng mặt bằng và tái định cư”. Tuy nhiên, một số địa phương chưa áp dụng
cơ chế đặc thù chỉ định thầu cho công tác khai thác, tận thu lâm sản.
- Một số địa phương22 khi xây dựng các khu tái định cư phục vụ dự án
cao tốc Bắc - Nam, khả năng cung ứng từ các mỏ đang khai thác không đảm bảo
nhưng chưa được áp dụng cơ chế đặc thù đối với các mỏ chưa khai thác mà phải thực
hiện theo Luật khoáng sản và Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của
Chính phủ, mất nhiều thời gian và không hoàn thành các khu tái định cư trước
30/6/2023 theo yêu cầu của Chính phủ.
- Đối với khu vực đồng bằng
sông Cửu Long, mặc dù trữ lượng đủ đáp ứng nhu cầu nhưng các địa phương đã dành
phần lớn các mỏ để phục vụ cho nhu cầu đầu tư các dự án của địa phương23, chưa ưu tiên ngay cho 02 dự án thành phần đoạn
Cần Thơ - Hậu Giang và Hậu Giang - Cà Mau nên việc cung ứng vật liệu theo chỉ đạo
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo còn chậm, kéo dài; khi thực hiện
thủ tục đánh giá tác động môi trường đối với các mỏ cát giao nhà thầu khai thác
theo cơ chế đặc thù nếu không thực hiện song song, đồng thời với quá trình hoàn
thiện hồ sơ, khai thác sẽ khó đảm bảo có đủ vật liệu phục vụ thi công các dự án
trong năm 2023.
5. Đề xuất,
kiến nghị
Để đáp ứng nhu cầu VLXD phục vụ
thi công, hoàn thành dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025, Tổ
công tác kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương:
5.1. Bộ TN&MT tham mưu
Chính phủ ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày
11/02/2022 các nội dung sau:
- UBND các tỉnh từ Hà Tĩnh đến
Khánh Hòa được phép quyết định nâng công suất các mỏ cát đã cấp phép, đang hoạt
động, còn thời hạn khai thác như đã áp dụng cho các mỏ cát đang khai thác khu vực
đồng bằng sông Cửu Long.
- Được phép sử dụng các mỏ vật
liệu nằm trong Hồ sơ khảo sát VLXD (sau khi đã rà soát, bổ sung) phục vụ dự án
đường cao tốc để cung cấp phục vụ thi công các khu tái định cư phục vụ GPMB dự
án đường cao tốc. Yêu cầu các địa phương quản lý chặt chẽ, bảo đảm chỉ sử dụng
vật liệu cho việc thi công các khu tái định cư của Dự án.
5.2. Bộ NN&PTNT sớm nghiên
cứu và hướng dẫn việc nộp tiền trồng rừng thay thế vào Quỹ đối với các địa
phương không còn diện tích trồng rừng thay thế hoặc diện tích còn lại không đủ
để trồng rừng thay thế với tinh thần rút ngắn thời gian chuyển mục đích sử dụng
rừng; về lâu dài, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư số 25/2022/TT-BNNPTNT
ngày 30/12/2022 để tháo gỡ vướng mắc, rút ngắn thời gian thực hiện trồng rừng
thay thế nhằm đẩy nhanh thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng; hướng dẫn các địa
phương tiếp tục thực hiện thủ tục CMĐSDR theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại
Thông báo số 175/TB-VPCP ngày 11/5/2023 và thực hiện công tác quản lý, sử dụng
tầng đất mặt theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 94/NĐ-CP
của Chính phủ, phù hợp với tình hình thực tế.
5.3. Bộ Xây dựng chủ trì, phối
hợp với Bộ GTVT, TN&MT, Tài chính, các địa phương để hướng dẫn các Chủ đầu
tư xác định giá vật liệu tại mỏ (gồm giá chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất,
đền bù cây cối, hoa màu…).
5.4. Bộ GTVT chỉ đạo các chủ đầu
tư, nhà thầu thi công: Phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương,
các cơ quan chức năng của tỉnh trong quá trình lập, trình, hoàn thiện hồ sơ
khai thác mỏ; thủ tục đất đai và thương thảo với các chủ đất khu vực mỏ; khẩn
trương hoàn thiện thủ tục để khai thác các mỏ đã trình vào cuối tháng 7 và đầu
tháng 8/2023, đáp ứng nhu cầu vật liệu theo tiến độ dự án; khảo sát, đưa thêm
các mỏ đáp ứng trữ lượng, chất lượng và thuận lợi về thủ tục đất đai vào hồ sơ
khảo sát VLXD phục vụ dự án (nếu có nhu cầu) và hoàn thành thủ tục với các mỏ
còn lại chậm nhất trong tháng 10/2023.
5.5. Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố
- Chỉ đạo các cơ quan chức năng
của tỉnh và chính quyền địa phương thực hiện các bước, trình tự, thủ tục khai
thác VLXD bảo đảm tuân thủ hướng dẫn của Bộ TN&MT (bao gồm cả các thủ tục về
đất đai), tránh phát sinh các thủ tục hành chính; thực hiện song song, đồng thời
các thủ tục trong quá trình thẩm định hồ sơ, đặc biệt chủ động thực hiện điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; phối hợp với các chủ đầu tư, nhà thầu
ngay trong giai đoạn lập, trình hồ sơ để sớm hoàn thiện thủ tục xác nhận bản
đăng ký khối lượng khai thác, hoàn thiện thủ tục đất đai khu vực mỏ theo thẩm
quyền, bảo đảm đủ điều kiện khai thác đáp ứng nhu cầu vật liệu năm 2023 vào cuối
tháng 7 và đầu tháng 8/2023; Đối với các thủ tục thuộc thẩm quyền quyết định của
Hội đồng nhân dân, khẩn trương hoàn chỉnh thủ tục để thông qua trong kỳ họp
tháng 7/2023 đối với các mỏ đã trình; trong kỳ họp cuối năm 2023 đối với các mỏ
còn lại, bảo đảm hoàn thành toàn bộ thủ tục khai thác mỏ trong năm 2023.
- Thành lập tổ công tác bao gồm
chính quyền địa phương, các Sở Xây dựng, Tài chính, TN&MT, các chủ đầu tư,
nhà thầu tổ chức thỏa thuận với các chủ sở hữu về giá chuyển nhượng, thuê đất bảo
đảm phù hợp với mặt bằng giá bồi thường của nhà nước quy định, không để xảy ra
tình trạng đầu cơ, nâng giá, ép giá; có chế tài để xử lý các trường hợp cố tình
nâng giá, ép giá, đầu cơ đất khu vực mỏ.
- Khẩn trương gia hạn thời gian
khai thác đối với các mỏ đã hết hạn, hoàn thiện thủ tục để khai thác trở lại
các mỏ đang tạm dừng khai thác để đáp ứng nhu cầu các dự án.
- Chủ động quyết định theo thẩm
quyền đối với công tác khai thác, tận thu lâm sản, sớm bàn giao mặt bằng cho dự
án.
- Đối với khu vực đồng bằng
sông Cửu Long, UBND các tỉnh quyết liệt chỉ đạo các sở, ngành, đặc biệt Sở
TN&MT, căn cứ các hướng dẫn của Bộ TN&MT để thực hiện các thủ tục giao
mỏ cho các Nhà thầu khai thác; thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường
song song, đồng thời với quá trình hoàn thiện thủ tục khai thác nếu thấy cần
thiết. UBND tỉnh An Giang, Đồng Tháp xem xét để tiếp tục cung cấp cát (An Giang
2,2 triệu m3, Đồng Tháp 0,5 triệu m3) từ các mỏ đang khai thác trong tháng
7/2023; UBND tỉnh Vĩnh Long sớm chấp thuận giao 02 mỏ theo đề nghị của Sở
TN&MT để các nhà thầu triển khai thủ tục trong tháng 7/2023 và ưu tiên giao
3 mỏ còn lại cho các Nhà thầu thi công Dự án được khai thác, bảo đảm đủ 5 triệu
m3 cho Dự án; UBND tỉnh An Giang sớm xem xét có phương án cung cấp 3,7 triệu m3
còn lại, bảo đảm đủ khối lượng cát cho dự án.
Tổ công tác kính báo cáo Thủ tướng
Chính phủ và xin ý kiến chỉ đạo./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà (để báo cáo);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Bộ: Tài nguyên và Môi trường; Công an; Xây dựng; Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn;
- UBND các tỉnh, thành phố: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
- Các Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải;
- Thành viên các Tổ công tác;
- Các Ban QLDA 2, 6, 7, 85, Thăng Long, Mỹ Thuận, đường Hồ Chí Minh;
- Lưu: VT, CQLXD (03).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Lê Đình Thọ
|
1 Nghị quyết số
18/NQ-CP ngày 11/02/2022 và Nghị quyết số 119/NQ-CP ngày 08/9/2022 của Chính phủ.
2 Các dự án thành phần
đoạn: Bãi Vọt - Hàm Nghi; Hàm Nghi - Vũng Áng; Vũng Áng - Bùng; Bùng - Vạn
Ninh; Vạn Ninh - Cam Lộ; Quảng Ngãi - Hoài Nhơn; Hoài Nhơn - Quy Nhơn; Quy Nhơn
- Chí Thạnh; Chí Thạnh - Vân Phong và Vân Phong - Nha Trang (chủ yếu sử dụng vật
liệu đất đắp nền đường).
3 Các dự án thành phần
đoạn: Quảng Ngãi - Hoài Nhơn, Hoài Nhơn - Quy Nhơn và Quy Nhơn - Chí Thạnh; Vân
Phong - Nha Trang.
4 Tỉnh Hà Tĩnh 03
mỏ, Quảng Ngãi 02 mỏ, Bình Định 03 mỏ, Phú Yên 05 mỏ.
6 Tỉnh Hà Tĩnh 08
mỏ; tỉnh Quảng Ngãi 04 mỏ, tỉnh Bình Định 07 mỏ, tỉnh Phú Yên 01 mỏ, tỉnh Khánh
Hòa 06 mỏ.
7 Tỉnh Quảng Ngãi
02 mỏ, tỉnh Bình Định 01 mỏ, tỉnh Khánh Hòa 06 mỏ.
8 Dự án thành phần
đoạn Cần Thơ Hậu Giang và Hậu Giang - Cà Mau (chủ yếu sử dụng cát đắp nền đường).
9 Các văn bản: số
9387/BGTVT-CQLXD ngày 14/9/2022, số 934/BGTVT-CQLXD ngày 03/02/2023, số
935/BGTVT-CQLXD ngày 03/02/2023, số 936/BGTVT-CQLXD ngày 03/02/2023.
10 Thông báo số
157/TB-VPUBND ngày 10/6/2022.
11 Văn bản số
50/UBND-ĐTXD ngày 17/2/2023.
12 Các văn bản: số
1411/BTNMT-ĐCKS ngày 18/3/2022; số 4766/BTNMT-KSVN ngày 20/6/2023
13 Tỉnh Hà Tĩnh:
04/7 mỏ thời gian thẩm định từ 42- 60 ngày; Tỉnh Quảng Ngãi: 01/13 mỏ thời gian
thẩm định là 60 ngày; Tỉnh Phú Yên: 01/3 mỏ thời gian thẩm định và báo cáo bổ
sung là 51 ngày, đối với 05 mỏ đã trình nhưng chưa được chấp thuận (03 mỏ cát
và 02 mỏ đất), các Nhà thầu đã nộp bản đăng ký khối lượng khai thác lần đầu từ
ngày 09/4/2023 đến ngày 19/5/2023; Hoàn chỉnh hồ sơ và trình lại từ ngày
22/5/2023 đến ngày 26/6/2023. Tuy nhiên đến nay chưa hoàn thiện công tác thẩm định;
Tỉnh Khánh Hòa: 01/6 mỏ thời gian thẩm định là 60 ngày.
14 Một số địa
phương đã cử cán bộ tham gia (tỉnh Quảng Trị cử đại diện của sở TN&MT dự và
hướng dẫn; tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Bình cử đại diện của UBND các xã dự
và xác nhận quá trình thương thảo…), một số địa phương chưa cử cán bộ tham gia.
15 Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Phú Yên.
16 Lịch họp HĐND
các Tỉnh: Hà Tĩnh ngày 13/7/2023; Quảng Bình từ ngày 14 đến 16/7/2023; Quảng Trị
từ ngày 18 đến 20/7/2023; Quảng Ngãi từ ngày 20 đến 21/7/2023; Bình Định từ
ngày 12 đến 14/7/2023.
17 Tỉnh Bình Định
có văn bản số 1782/UBND-KT ngày 29/3/2023.
18 Một số mỏ trên
địa phận tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
19 02 mỏ cát tỉnh
Phú Yên đã giao giữa tháng 6/2023 nhưng dự kiến cuối tháng 7/2023 mới khai thác
được.
20 Tỉnh Phú Yên:
Mỏ cát Bình Thọ vướng hệ thống điện cao thế không đủ điều kiện để khai thác; Mỏ
đất Phú Ân chỉ thỏa thuận được một phần diện tích, có thể cấp quyền khai thác
trước tại phần diện tích đã thỏa thuận.
21 Các tỉnh: Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
23 Cao tốc: Châu
Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng; Cao Lãnh - An Hữu; Mỹ An - Cao Lãnh.