Công văn 500/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ năm 2020 cấp Giấy chứng nhận đối với đất ao, vườn do Tổng cục Quản lý đất đai ban hành
Số hiệu | 500/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ |
Ngày ban hành | 16/03/2020 |
Ngày có hiệu lực | 16/03/2020 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Tổng cục Quản lý đất đai |
Người ký | Phạm Thị Thịnh |
Lĩnh vực | Bất động sản |
BỘ
TÀI NGUYÊN VÀ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 500/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ |
Hà Nội, ngày 16 tháng 3 năm 2020 |
Kính gửi: Ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai
Tổng cục Quản lý đất đai nhận được Công văn số 16/UBND-TNMT ngày 03/01/2020 của Ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai (có Báo cáo số 68/BC-TNMT ngày 21/02/2020 của Phòng Tài nguyên và Môi trường Quận Hoàng Mai gửi kèm theo) về việc xin hướng dẫn giải quyết hồ sơ đề nghị công nhận quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ao, vườn. Sau khi nghiên cứu, nếu không có tình tiết nào khác, Tổng cục Quản lý đất đai có ý kiến như sau:
Theo phản ánh của quý cơ quan tại Công văn số 16/UBND-TNMT và Báo cáo số 68/BC-TNMT thì người sử dụng đất đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy tờ viết tay trước ngày 01/01/2008, đất có nguồn gốc là “đất vườn, ao do ông cha để lại, không phải là đất nông nghiệp được Nhà nước giao theo Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 và Nghị định số 85/CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ”, không có nhà ở trong cùng thửa đất. Thời điểm nhận chuyển nhượng trước ngày 01/01/2008, người đang sử dụng đất không có hộ khẩu thường trú tại địa phương, không sản xuất nông nghiệp, không thuộc nhân khẩu giao đất nông nghiệp. Hiện trạng đang trồng cây lâu năm (trồng chuối).
Căn cứ quá trình sử dụng đất nêu trên, Tổng cục Quản lý đất đai đề nghị quý cơ quan rà soát, trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì xác định loại đất theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
Về việc cấp Giấy chứng nhận: Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là năm 2007 - là thời điểm pháp luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành. Do đó, căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 66 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai thì “Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, người sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận mới được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”. Vì vậy, trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ao, vườn (đất nông nghiệp) mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, thời điểm nhận chuyển nhượng trước ngày 01/01/2008 thì đã được pháp luật cho phép.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 179 của Luật Đất đai thì hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì có quyền như hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn mức.
Do đó, căn cứ các quy định nêu trên thì đối với trường hợp sử dụng đất nông nghiệp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà nhận chuyển nhượng trước ngày 01/01/2008 thì được công nhận quyền sử dụng đất như trường hợp được giao đất nông nghiệp trong hạn mức; thời hạn sử dụng đất là 50 năm và được tính từ ngày 01/7/2014 theo quy định tại Khoản 1 Điều 126 và Khoản 4 Điều 210 của Luật Đất đai năm 2013.
Trên đây là ý kiến của Tổng cục Quản lý đất đai để Ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai xem xét, giải quyết việc cấp Giấy chứng nhận thực hiện theo quy định của pháp luật./.
|
TUQ.
TỔNG CỤC TRƯỞNG |