Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Hiện nay, 19 tỉnh/thành phố phía Nam
đã áp dụng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020
của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện biện pháp cấp bách phòng, chống dịch
Covid-19 (Chỉ thị 16) và theo văn bản số 969/TTg-KGVX ngày 17/07/2021 của Thủ
tướng Chính phủ kể từ 0 giờ 00 ngày 19/07/2021. Trong khi đó, các tỉnh/thành phố
khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đã bước vào thời điểm chính vụ thu hoạch
lúa Hè Thu 2021.
Để góp phần hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn
cho các thương nhân, doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh thóc, gạo trong bối
cảnh dịch Covid-19, ngày 12/8/2021, Bộ Công Thương đã tổ chức cuộc họp với Hiệp
hội Lương thực Việt Nam (VFA) và các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo. Trên
cơ sở thông tin tại cuộc họp, Bộ Công Thương kính báo cáo Thủ tướng Chính phủ về
tình hình tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa tại các tỉnh/thành phố phía Nam trong bối
cảnh dịch Covid-19 như sau:
1. Tình hình sản
xuất lúa gạo nội địa và xuất khẩu gạo
a) Thị trường lúa gạo trong nước
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, tính đến ngày 12/08/2021, vụ Hè Thu tại các tỉnh/thành phố
khu vực ĐBSCL đã thu hoạch được 780 nghìn ha với năng suất khoảng 5,8 tấn/ha, sản
lượng đạt khoảng 4,524 triệu tấn. Dự kiến thu hoạch rộ trong tháng 8 và dứt điểm
khoảng vào giữa tháng 9/2021.
b) Hoạt động xuất khẩu gạo
Theo số liệu tổng hợp, kết quả xuất
khẩu gạo Việt Nam lũy kế 7 tháng đầu năm 2021 đạt số lượng 3,492 triệu tấn, trị
giá 1,888 tỷ USD, giá bình quân 540,68 USD/tấn; so với cùng kỳ năm 2020 về số
lượng giảm 12,69%, về trị giá giảm 3,10% và giá bình quân tăng 53,5 USD/tấn.
VFA dự kiến cả năm 2021, Việt Nam sẽ
xuất khẩu khoảng 6,0 - 6,2 triệu tấn gạo các loại, trị giá đạt khoảng 3,325 tỷ
USD.
2. Những khó
khăn, vướng mắc trong chuỗi giá trị sản xuất, tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu của
ngành nông nghiệp gạo Việt Nam
Việc áp dụng Chỉ thị 16 tại 19 tỉnh/thành
phố phía Nam đã dẫn đến tình trạng tắc nghẽn lưu thông lúa hàng hóa từ ruộng về
nhà máy và từ nhà máy ra các cảng xuất khẩu. Cụ thể là:
a) Đối với vấn đề lưu thông hàng hóa và tổ chức sản xuất của các thương nhân
- Khó khăn trong việc thu hoạch
lúa tươi vụ Hè Thu tại ruộng
Thiếu hụt trầm trọng lực lượng lao động
thời vụ trên đồng, từ người đi thu mua cho đến người gặt lúa, bốc vác xuống
ghe. Các ghe vận chuyển lúa không thể
di chuyển từ vùng này sang vùng khác, đặc biệt là giữa các địa phương.
- Khó khăn trong khâu chế biến
thóc hàng hóa
Vụ Hè Thu thu hoạch rộ ngay thời điểm
mưa nhiều nên lúa phải được sấy bằng thiết bị sấy. Tuy nhiên, việc vận chuyển
lúa từ ruộng đến nhà máy bị gián đoạn, dẫn đến tình trạng ùn ứ lúa tươi chưa được
xử lý, làm giảm chất lượng gạo. Các thương nhân thiếu hụt nguồn nguyên liệu chế
biến gạo thành phẩm, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các hợp
đồng xuất khẩu đã ký kết trước đó.
Đối với những nhà máy tổ chức sản xuất
theo hình thức “3 tại chỗ”, năng suất hoạt động giảm hẳn,
chỉ duy trì từ 50% trở xuống do thiếu hụt lực lượng nhân công.
Các thương nhân dù đã áp dụng hình thức
“1 cung đường, 2 địa điểm” cho nhà máy sản xuất, chế biến. Tuy nhiên, do bị giới
hạn bởi khung giờ không được ra đường (18 giờ 00 - 6 giờ 00) nên một số hoạt động
bị gián đoạn qua ngày, làm cho chất lượng gạo neo trên ghe/sà lan qua đêm bị sụt
giảm.
Đối với các nhà máy/kho chứa có ca
nhiễm: Các cơ quan y tế áp dụng biện pháp phong tỏa theo quy định (thời gian
quá dài đối với nhà máy sản xuất, chế biến mặt hàng lương thực chính là gạo) đã
vô tình gây đứt gãy chuỗi sản xuất của các thương nhân.
Tại một số địa phương chưa thống nhất
được phương án xét nghiệm tại nhà máy. Có trường hợp phản ánh nhà máy phải thực
hiện việc xét nghiệm đến 2-3 lần/tuần của nhiều cơ quan cấp huyện, xã.
Các cảng giảm công suất hoạt động
(trong đó có Bến 125 tại Tân Cảng Cát Lái là một trong những bến xuất gạo bằng container chính của khu vực
TP. Hồ Chí Minh đã ngừng hoạt động gần 1 tháng nay) nên một số thương nhân phải
đưa container về đóng tại kho/trên sà lan. Do đó, tiến độ
giao hàng bị chậm trễ, hãng tàu phạt, chi phí tăng. Thực tế cho thấy đây chỉ có
thể là giải pháp tình thế và chỉ áp dụng được đối với các kho gần cảng xuất.
- Khó khăn trong khâu vận chuyển từ nhà máy chế biến đến các cảng xuất khẩu
Hiện nay, thị trường thiếu hụt nghiêm
trọng tài xế xe tải/container, tài công ghe/sà lan vận chuyển gạo hàng hóa từ
nhà máy chế biến ra cảng. Người lao động làm hàng tại các cảng xuất khẩu cũng bị
giảm rất nhiều.
Tại một số địa phương, tài công ghe
thương lái hoặc tài xế lái máy gặt đập liên hợp được yêu cầu phải có giấy xét
nghiệm âm tính với Covid-19, tuy nhiên giấy xác nhận này chỉ có hiệu lực trong
vòng 72 giờ, không đủ thời gian để vận chuyển hàng hóa từ
các tỉnh/thành phố khu vực ĐBSCL đi các cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh.
Hàng loạt các phương tiện vận tải biển phải tạm ngưng hoạt động.
Mặc dù các cơ
quan chức năng đã có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn đối với các phương tiện
chuyên chở hàng hóa liên tỉnh từ đường bộ cho đến thủy nội địa nhưng trên thực tế, các thương nhân phản ánh đường thủy nội địa vẫn chưa
được áp dụng, nhất là đối với các phương tiện nhỏ lẻ.
b) Tồn kho hàng hóa, nguồn vốn tín
dụng, thị trường xuất khẩu và yếu tố thời tiết
- Tình hình tồn kho của các thương nhân
Tồn kho thóc gạo tại các thương nhân
là Hội viên VFA nhìn chung vẫn còn nhiều dù đã đến thời điểm bổ sung tồn kho
thường kỳ. Tuy nhiên, do quá trình lưu thông, phân phối hàng hóa bị gián đoạn
nên tồn kho chưa được giải phóng, dòng vốn cũng bị ách tắc theo và thương nhân
không thể tiếp tục thu mua thóc gạo. Trong khi đó, do giá trị hàng hóa cao nên
các thương nhân xuất khẩu gạo hầu hết đều sử dụng đòn bẩy
tài chính lớn, các chi phí phát sinh sau Chỉ thị 16 cũng thành một gánh nặng mới.
- Tín dụng
Dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có
công văn số 5747/NHNN-TD ngày 10 tháng 8 năm 2021 đề nghị các Ngân hàng thương
mại và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố Khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long đảm bảo vốn tín dụng phục vụ thu mua, tạm trữ thóc, gạo tại Khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long nhưng thực tế hiện nay, theo các thương nhân phản ánh, các
ngân hàng thương mại vẫn chưa triển khai thực hiện.
- Thị trường xuất khẩu
Hiện nay, hầu như các thương nhân e
ngại việc ký kết hợp đồng mới do tình trạng ách tắc trong lưu thông và giao nhận
tại các cảng biển. Bên cạnh đó, biên độ chênh lệch giá thời điểm chào bán và
giá cước thực tế lúc giao hàng quá lớn khiến các thương nhân và cả khách hàng đều
gặp rủi ro lớn.
Tình trạng này nếu tiếp diễn chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến kim ngạch ngành và nguy cơ mất thị trường xuất khẩu, nhất là các thị trường truyền thống như Philippines, Trung Quốc,
Malaysia vào các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực như Thái Lan, Ấn Độ.
3. Đánh giá
Những khó khăn nêu trên đã làm cho
tình hình tiêu thụ lúa Hè Thu 2021 ở các tỉnh/thành phố khu vực ĐBSCL gặp rất
nhiều khó khăn và bị đình trệ trong việc thu hoạch, xử lý sau thu hoạch. Nguy
cơ chất lượng gạo sụt giảm mạnh là hoàn toàn thực tế và việc không thể tiêu thụ lúa tươi tại ruộng dẫn đến giá lúa gạo nội địa khu vực đồng bằng
sông Cửu Long giảm liên tục trong nhiều tuần qua: Giá bình
quân lúa tươi loại thường tại ruộng từ ngày 01/5 là 6.200 đồng/kg, ngày 01/6 là 5.800 đồng/kg, ngày 01/7 là 5.200 đồng/kg và đến ngày 5/8
giảm xuống chỉ còn 4.700 đồng/kg[1].
Không bán được lúa tươi lại không thể trữ trong dân do điều kiện thời tiết đang mưa nhiều cùng với giá vật
tư nông nghiệp đầu vào tăng mạnh trong thời gian qua là những nguyên nhân chính
gây tâm lý không thuận trong nông dân và làm dấy lên lo ngại về khả năng người
trồng lúa sẽ bỏ ruộng hoặc chậm xuống giống lúa vụ 3, tác động xấu đến các vụ
mùa sau và trên hết là đưa đến nguy cơ thiếu hụt lương thực lúc giáp hạt vụ
Đông Xuân 2021/22 - thời điểm cận Tết.
Ngày 10/8/2021, Công ty Đại lý Giao
nhận vận tải xếp dỡ Tân Cảng (Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn) đã có văn bản số
108/TB-TCL-KHKD thông báo về kế hoạch tiếp nhận lại dịch vụ đóng rút gạo tại Bến 125-Cảng Cát Lái từ ngày 16/8/2021 với quy mô 2 băng chuyền kép (năng
suất 70 container/ngày) và phụ thu thêm 450 nghìn đồng/container. Việc mở lại
đóng rút gạo tại Bến 125 - Cảng Cát Lái đã hỗ trợ cho
thương nhân xuất khẩu gạo trong khâu xuất khẩu nhưng việc tiếp nhận chỉ với quy mô 2 băng chuyền và phụ thu vẫn tạo
thêm chi phí tài chính, thời gian đối với gạo xuất khẩu.
Ngày 12/8/2021, Bộ Y tế có văn bản số
6565/BYT-MT gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố về việc phòng chống dịch
COVID-19 tại cơ sở lao động sản xuất kinh doanh. Trong đó các địa phương, doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp chủ động triển khai các biện
pháp phòng, chống dịch đảm bảo sản xuất kinh doanh. Ủy ban
nhân dân các tỉnh/thành phố căn cứ hướng dẫn của Ban Chỉ đạo Quốc gia, Bộ Y tế
và dựa trên đánh giá tình hình thực tế tại địa phương để
hướng dẫn các đơn vị xây dựng kế hoạch và phương án phòng, chống dịch phù hợp,
hiệu quả. Việc triển khai theo chỉ đạo của Bộ Y tế tại văn bản số 6565/BYT-MT
có thể giúp địa phương có sự linh hoạt hơn trong công tác tổ chức phòng, chống
dịch nhưng việc tổ chức tiêu thụ thóc, gạo trong chuỗi giá trị tại khu vực
ĐBSCL cần có sự thống nhất liên tỉnh, tránh việc gián đoạn chuỗi do sự khác biệt
trong triển khai giữa các địa phương.
4. Kiến nghị
Để đảm bảo tiêu thụ kịp thời thóc, gạo
hàng hóa cho người nông dân, trên cơ sở thông tin, đề xuất được trao đổi tại cuộc họp, Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét,
giao các Bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai một số nhóm giải pháp như
sau:
a) Nhóm giải pháp cấp bách
- Khẩn trương nghiên cứu, mở luồng
xanh cho vận tải đường thủy
Với đặc thù địa hình kênh rạch chằng
chịt, đa phần các nhà máy sản xuất, chế biến lúa gạo cập bờ sông/bờ kênh, thóc,
gạo sản xuất ở vùng ĐBSCL được vận chuyển 95% bằng đường thủy. Do đó, việc khơi
thông dòng chảy phương tiện chuyên chở sẽ góp phần đáng kể
giúp các thương nhân xuất khẩu gạo duy trì được chuỗi cung ứng lúa gạo hàng hóa
từ đồng ruộng ra đến cảng xuất khẩu.
Trên cơ sở đó, Bộ
Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, giao:
+ Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối
hợp với Bộ Y tế và các Bộ ngành, địa phương liên quan sớm xây dựng và báo cáo
phương án “luồng xanh” cho vận tải đường thủy, đảm bảo yêu cầu về phòng chống dịch
Covid-19 nhưng giải tỏa được ách tắc hiện nay.
+ UBND các tỉnh/thành phố khu vực
ĐBSCL khẩn trương chỉ đạo các cấp tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho các
thương nhân hoạt động trong lĩnh vực thóc, gạo nói chung và thương lái nói
riêng được đi lại thu mua trực tiếp tại đồng; trao đổi và
thống nhất với Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải xem xét, áp dụng linh hoạt các
phương án:
Phương án 1: Chấp nhận các xét nghiệm nhanh tại ấp/xã, đăng ký thông tin, lịch
trình di chuyển với cơ quan quản lý nhà nước tại ấp/xã, v.v... và áp dụng tương
tự đối với lực lượng bốc xếp thóc xuống/lên ghe. Đặc biệt xem xét ưu tiên phân
luồng xanh (xét nghiệm nhanh tại chốt kiểm dịch trên sông)
cho các phương tiện vận chuyển lúa tươi từ đồng ruộng về hệ thống nhà máy sấy vệ
tinh trong khu vực gần nhất (cùng xã/huyện) để đảm bảo chất
lượng thóc tồn trữ đạt yêu cầu. Riêng khâu vận chuyển thóc/gạo giữa các nhà máy
không đặt trong cùng một tỉnh hay từ nhà máy ra các cảng xuất khẩu/khu vực tiêu
thụ nội địa đang có nhu cầu nhiều: Chốt kiểm dịch trên các
sông lớn tại các nơi giáp ranh cần bố trí cơ sở xét nghiệm đi kèm trong phạm vi
gần nhất để đáp ứng nhu cầu xét nghiệm cho tài công trong vận chuyển liên tỉnh
thời gian dài.
Phương án 2: Trường hợp thương nhân đồng ý hỗ trợ cung cấp các bộ kit xét nghiệm
nhanh cho các chốt trên sông, khi ghe/sà lan của các thương nhân di chuyển qua,
đề nghị nhân viên chịu trách nhiệm trực chốt tiến hành xét nghiệm nhanh và đóng
dấu thông hành cho các phương tiện tranh thủ di chuyển tiếp. Đối với phương án
này, đề nghị các cấp lãnh đạo địa phương chỉ đạo linh hoạt: (i) Chỉ yêu cầu giấy
xác nhận âm tính với Covid-19 (PCR) khi phương tiện rời bến/bờ (điểm đầu) và suốt
qua trình di chuyển trên sông được phép sử dụng giấy xác
nhận xét nghiệm nhanh tại các chốt để qua chốt kế tiếp
cũng như cập bến/bờ (điểm cuối) của lộ trình; (ii) Gửi nhân sự trực chốt đến tập
huấn nhanh tại các cơ quan y tế có chức năng gần nhất để
đáp ứng nhu cầu công tác.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp cận nguồn vốn thu mua thóc, gạo hàng hóa
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét,
chỉ đạo các Ngân hàng thương mại (i) có hỗ trợ nhất định về lãi suất cho các
doanh nghiệp; và (ii) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thế chấp vay vốn
bằng chính sản phẩm sẽ thu mua như kiến nghị của Bộ Công Thương tại văn bản số
4889/BCT-XNK ngày 12/8/2021 về tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn
vốn thu mua thóc, gạo hàng hóa.
b) Nhóm giải pháp đồng bộ khác
- Giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành liên quan làm việc với Tổng
Công ty Tân Cảng Sài Gòn để sớm mở lại tất cả các máng
đóng rút gạo trong thời gian sớm nhất nhằm giảm bớt tình
trạng ùn tắc container xuất khẩu gạo
và cân nhắc về phí phụ thu để tạo thuận lợi cho xuất khẩu trong bối cảnh dịch
Covid-19 do bến này là một trong những bến chính chuyên
đóng hàng gạo bằng container.
- Giao Bộ Giao thông vận tải phối hợp
Bộ Công Thương tiếp tục theo dõi, làm việc và yêu cầu các hãng tàu, các doanh
nghiệp kinh doanh ngành logistic phải công khai, minh bạch về giá cước vận chuyển
container cũng như có sự điều chỉnh giá cước vận chuyển về
mức hợp lý để tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp được
thuận lợi hơn trong bối cảnh dịch Covid-19 như hiện nay.
- Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, thống nhất việc áp dụng biện
pháp xét nghiệm Covid-19 đầu vào, sau đó giao cho thương nhân có kế hoạch tự quản
lý đội ngũ lao động và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với
UBND các địa phương xem xét ưu tiên và khẩn trương triển khai việc tiêm vắc-xin
cho những thành phần lao động bắt buộc
phải tham gia trực tiếp trên hiện trường - trong chuỗi cung ứng lúa gạo nói
riêng và lương thực nói chung như tài xế, tài công, người đi thu mua, nhân viên
nhà máy, nhân viên xuất nhập khẩu, nhân viên điều phối hiện trường, v.v...
Bộ Công Thương kính báo cáo Thủ tướng
Chính phủ xem xét, cho ý kiến chỉ đạo./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Các đ/c PTTg (để b/c);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Bộ: NN&PTNT, TC, GTVT,
Y tế;
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam;
- UBND các tỉnh/thành phố: TP.HCM, khu vực ĐBSCL;
- Các đ/c Lãnh đạo Bộ;
- Các đơn vị: QLTT, XTTM, CN, TTTN;
- Hiệp hội Lương thực Việt Nam;
- Lưu: VT, XNK(2).
|
BỘ
TRƯỞNG
Nguyễn Hồng Diên
|
[1] Mức giá này cao hơn 26,07% so với mức giá
thành sản xuất bình quân thóc vụ Hè Thu năm 2021 là 3.728 đồng/kg do Bộ Tài
chính công bố tại văn bản số 6519/BTC-QLG ngày 17/6/2021.