Công văn 4922/BCT-XNK năm 2021 về tháo gỡ khó khăn cho tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa trong bối cảnh dịch Covid-19 do Bộ Công thương ban hành

Số hiệu 4922/BCT-XNK
Ngày ban hành 14/08/2021
Ngày có hiệu lực 14/08/2021
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Bộ Công thương
Người ký Nguyễn Hồng Diên
Lĩnh vực Thương mại,Thể thao - Y tế

BỘ CÔNG THƯƠNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 4922/BCT-XNK
V/v tháo gỡ khó khăn cho tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa trong bối cảnh dịch Covid-19

Hà Nội, ngày 14 tháng 8 năm 2021

 

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

Hiện nay, 19 tỉnh/thành phố phía Nam đã áp dụng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 (Chỉ thị 16) và theo văn bản số 969/TTg-KGVX ngày 17/07/2021 của Thủ tướng Chính phủ kể từ 0 giờ 00 ngày 19/07/2021. Trong khi đó, các tỉnh/thành phố khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đã bước vào thời điểm chính vụ thu hoạch lúa Hè Thu 2021.

Để góp phần hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các thương nhân, doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh thóc, gạo trong bối cảnh dịch Covid-19, ngày 12/8/2021, Bộ Công Thương đã tổ chức cuộc họp với Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) và các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo. Trên cơ sở thông tin tại cuộc họp, Bộ Công Thương kính báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa tại các tỉnh/thành phố phía Nam trong bối cảnh dịch Covid-19 như sau:

1. Tình hình sản xuất lúa gạo nội địa và xuất khẩu gạo

a) Thị trường lúa gạo trong nước

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến ngày 12/08/2021, vụ Hè Thu tại các tỉnh/thành phố khu vực ĐBSCL đã thu hoạch được 780 nghìn ha với năng suất khoảng 5,8 tấn/ha, sản lượng đạt khoảng 4,524 triệu tấn. Dự kiến thu hoạch rộ trong tháng 8 và dứt điểm khoảng vào giữa tháng 9/2021.

b) Hoạt động xuất khẩu gạo

Theo số liệu tổng hợp, kết quả xuất khẩu gạo Việt Nam lũy kế 7 tháng đầu năm 2021 đạt số lượng 3,492 triệu tấn, trị giá 1,888 tỷ USD, giá bình quân 540,68 USD/tấn; so với cùng kỳ năm 2020 về số lượng giảm 12,69%, về trị giá giảm 3,10% và giá bình quân tăng 53,5 USD/tấn.

VFA dự kiến cả năm 2021, Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 6,0 - 6,2 triệu tấn gạo các loại, trị giá đạt khoảng 3,325 tỷ USD.

2. Những khó khăn, vướng mắc trong chuỗi giá trị sản xuất, tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu của ngành nông nghiệp gạo Việt Nam

Việc áp dụng Chỉ thị 16 tại 19 tỉnh/thành phố phía Nam đã dẫn đến tình trạng tắc nghẽn lưu thông lúa hàng hóa từ ruộng về nhà máy và từ nhà máy ra các cảng xuất khẩu. Cụ thể là:

a) Đối với vn đề lưu thông hàng hóa và tổ chức sản xuất của các thương nhân

- Khó khăn trong việc thu hoạch lúa tươi vụ Hè Thu tại ruộng

Thiếu hụt trầm trọng lực lượng lao động thời vụ trên đồng, từ người đi thu mua cho đến người gặt lúa, bốc vác xuống ghe. Các ghe vận chuyn lúa không thể di chuyển từ vùng này sang vùng khác, đặc biệt là giữa các địa phương.

- Khó khăn trong khâu chế biến thóc hàng hóa

Vụ Hè Thu thu hoạch rộ ngay thời điểm mưa nhiều nên lúa phải được sấy bằng thiết bị sấy. Tuy nhiên, việc vận chuyển lúa từ ruộng đến nhà máy bị gián đoạn, dẫn đến tình trạng ùn ứ lúa tươi chưa được xử lý, làm giảm chất lượng gạo. Các thương nhân thiếu hụt nguồn nguyên liệu chế biến gạo thành phm, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết trước đó.

Đối với những nhà máy tổ chức sản xuất theo hình thức “3 tại chỗ”, năng suất hoạt động giảm hn, chỉ duy trì từ 50% trở xuống do thiếu hụt lực lượng nhân công.

Các thương nhân dù đã áp dụng hình thức “1 cung đường, 2 địa điểm” cho nhà máy sản xuất, chế biến. Tuy nhiên, do bị giới hạn bởi khung giờ không được ra đường (18 giờ 00 - 6 giờ 00) nên một số hoạt động bị gián đoạn qua ngày, làm cho chất lượng gạo neo trên ghe/sà lan qua đêm bị sụt giảm.

Đối với các nhà máy/kho chứa có ca nhiễm: Các cơ quan y tế áp dụng biện pháp phong tỏa theo quy định (thời gian quá dài đối với nhà máy sản xuất, chế biến mặt hàng lương thực chính là gạo) đã vô tình gây đứt gãy chuỗi sản xuất của các thương nhân.

Tại một số địa phương chưa thống nhất được phương án xét nghiệm tại nhà máy. Có trường hợp phản ánh nhà máy phải thực hiện việc xét nghiệm đến 2-3 lần/tuần của nhiều cơ quan cấp huyện, xã.

Các cảng giảm công suất hoạt động (trong đó có Bến 125 tại Tân Cảng Cát Lái là một trong nhng bến xuất gạo bằng container chính của khu vực TP. Hồ Chí Minh đã ngừng hoạt động gần 1 tháng nay) nên một số thương nhân phải đưa container về đóng tại kho/trên sà lan. Do đó, tiến độ giao hàng bị chậm trễ, hãng tàu phạt, chi phí tăng. Thực tế cho thấy đây chỉ có thể là giải pháp tình thế và chỉ áp dụng được đối với các kho gần cảng xuất.

- Khó khăn trong khâu vận chuyn từ nhà máy chế biến đến các cảng xuất khu

Hiện nay, thị trường thiếu hụt nghiêm trọng tài xế xe tải/container, tài công ghe/sà lan vận chuyển gạo hàng hóa từ nhà máy chế biến ra cảng. Người lao động làm hàng tại các cảng xuất khẩu cũng bị giảm rất nhiều.

Tại một số địa phương, tài công ghe thương lái hoặc tài xế lái máy gặt đập liên hợp được yêu cầu phải có giấy xét nghiệm âm tính với Covid-19, tuy nhiên giấy xác nhận này chỉ có hiệu lực trong vòng 72 giờ, không đủ thời gian đ vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh/thành phố khu vực ĐBSCL đi các cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh.

Hàng loạt các phương tiện vận tải bin phải tạm ngưng hoạt động.

Mặc dù các cơ quan chức năng đã có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn đối với các phương tiện chuyên chở hàng hóa liên tỉnh từ đường bộ cho đến thủy nội địa nhưng trên thực tế, các thương nhân phản ánh đường thủy nội địa vẫn chưa được áp dụng, nhất là đối với các phương tiện nhỏ lẻ.

b) Tồn kho hàng hóa, nguồn vốn tín dụng, thị trường xuất khẩu và yếu t thời tiết

- Tình hình tồn kho của các thương nhân

[...]