Công văn 3127/TCT-CS năm 2024 về hóa đơn do Tổng cục Thuế ban hành
Số hiệu | 3127/TCT-CS |
Ngày ban hành | 19/07/2024 |
Ngày có hiệu lực | 19/07/2024 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Tổng cục Thuế |
Người ký | Lưu Đức Huy |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí,Kế toán - Kiểm toán |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3127/TCT-CS |
Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2024 |
Kính gửi: Cục Cảnh sát giao thông.
Tổng cục Thuế nhận được công văn số 2228/C08-P2 ngày 09/5/2024 của Cục Cảnh sát giao thông về hóa đơn. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ điểm d, Khoản 3, Điều 3 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 quy định các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước không do cơ quan quản lý thuế quản lý thu;
Căn cứ Điều 3 Nghị quyết số 73/2022/QH15 về thí điểm đấu giá biển số xe ô tô, quy định về giá khởi điểm, tiền đặt trước, bước giá, tiền thu được từ đấu giá biển số xe ô tô;
Căn cứ khoản 2 Điều 22 Nghị định số 39/2023/NĐ-CP ngày 26/6/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Nghị quyết số 73/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc hội về thí điểm đấu giá biển số xe ô tô, quy định về quản lý, sử dụng số tiền thu được từ đấu giá;
Căn cứ Điều 95 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công quy định về hóa đơn bán tài sản công như sau:
“Điều 95. Hóa đơn bán tài sản công
1. Hóa đơn bán tài sản công do Bộ Tài chính in theo Mẫu số 08/TSC-HĐ ban hành kèm theo Nghị định này để sử dụng khi bán các loại tài sản công sau đây:
a) Tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị (bao gồm cả nhà ở thuộc sở hữu nhà nước);
b) Tài sản kết cấu hạ tầng;
c) Tài sản công được Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý không tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Tài sản của dự án sử dụng vốn nhà nước;
đ) Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân;
e) Tài sản công bị thu hồi theo quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền;
g) Vật tư, vật liệu thu hồi được từ việc xử lý tài sản công.”
Căn cứ Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ như sau:
“1. Khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập hóa đơn để giao cho người mua (bao gồm cả các trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hóa, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động và tiêu dùng nội bộ (trừ hàng hóa luân chuyển nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất); xuất hàng hóa dưới các hình thức cho vay, cho mượn hoặc hoàn trả hàng hóa) và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 10 Nghị định này, trường hợp sử dụng hóa đơn điện tử thì phải theo định dạng chuẩn dữ liệu của cơ quan thuế theo quy định tại Điều 12 Nghị định này”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về thời điểm lập hóa đơn như sau:
“Điều 9. Thời điểm lập hóa đơn
1. Thời điểm lập hóa đơn đối với bán hàng hóa (bao gồm cả bán tài sản nhà nước, tài sản tịch thu, sung quỹ nhà nước và bán hàng dự trữ quốc gia) là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.”
Căn cứ các quy định trên:
1, Về hóa đơn bán hồ sơ cho người tham gia đấu giá biển số xe ô tô:
Cục Cảnh sát giao thông tổ chức thực hiện hoạt động đấu giá biển số xe ô tô trực tuyến, hồ sơ của người tham gia đấu giá do Cục Cảnh sát giao thông phát hành, khi Cục Cảnh sát giao thông (hoặc tổ chức đấu giá ký hợp đồng dịch vụ với Cục Cảnh sát giao thông) thu tiền hồ sơ của người tham gia đấu giá biển số xe ô tô cho Cục Cảnh sát giao thông thì lập hóa đơn GTGT điện tử giao cho từng khách hàng mua hồ sơ tham gia đấu giá.
Nghị định 123/2020/NĐ-CP không quy định được lập chung một hóa đơn hàng tháng cho những khách hàng không có yêu cầu xuất hóa đơn.
2, Về kê khai thu nộp ngân sách số tiền bán hồ sơ đấu giá biển số xe ô tô:
Về việc kê khai, nộp ngân sách nhà nước số tiền thu được từ bán hồ sơ cho người tham gia đấu giá biển số xe ô tô, đề nghị Cục Cảnh sát giao thông báo cáo Bộ Công an có ý kiến với Bộ Tài chính để được hướng dẫn thực hiện.
Tổng cục Thuế có ý kiến để Cục Cảnh sát giao thông được biết./.