Công văn số 2545/TM-CSTNTN ngày 02/07/2002 của Bộ Thương mại về việc tổng hợp ý kiến xây dựng đề án tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn thời kỳ 2001-2010
Số hiệu | 2545/TM-CSTNTN |
Ngày ban hành | 02/07/2002 |
Ngày có hiệu lực | 02/07/2002 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Thương mại |
Người ký | Phan Thế Ruệ |
Lĩnh vực | Thương mại |
BỘ THƯƠNG MẠI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2545/TM-CSTNTN |
Hà Nội, ngày 02 tháng 7 năm 2002 |
Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 2384/VPCP-KTTH ngày 7/5/2002 của Văn phòng Chính phủ, ngày 9/5/2002 Bộ Thương mại đã có công văn số 1783/TM-CSTNTN (kèm theo dự thảo Đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 và dự thảo Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ) đề nghị các tổ chức đoàn thể, một số tỉnh, thành phố và cơ quan có liên quan tham gia ý kiến. Đến nay, Bộ Thương mại đã nhận được ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Uỷ ban dân tộc và miền núi. Trừ hai tỉnh Lai Châu và Bắc Cạn có ý kiến thêm, còn các tỉnh, thành phố khác trong quá trình xây dựng Đề án đã tham gia góp ý hai lần bằng văn bản và trực tiếp phát biểu tại hội nghị chuyên đề về xây dựng Đề án nói trên nên lần này nhất trí và không có ý kiến gì thêm.
Ý kiến tham gia của các cơ quan đoàn thể về cơ bản nhất trí với hình thức văn bản, kết cấu và nội dung chủ yếu của dự thảo Đề án, dự thảo Quyết định phê duyệt Đề án. Trên cơ sở nghiên cứu và tiếp thu ý kiến của các cơ quan, đoàn thể, Bộ Thương mại đã chỉnh sửa Đề án và dự thảo Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ. Về một số vấn đề còn ý kiến khác nhau, Bộ Thương mại xin được giải trình như sau:
1. Về nội dung đề án
Đa số ý kiến nhất trí như đề án.
Số ít ý kiến đề nghị nội dung Đề án cần được chi tiết hơn nữa. Bộ Thương mại cho rằng, Đề án này được thực hiện trong 10 năm nên mục tiêu, phương thức và giải pháp phải có tầm bao quát, vừa có ý nghĩa tình thế trước mắt và vừa có ý nghĩa chiến lược lâu này. Mặt khác, do Đề án có phạm vi rộng, nội dung đề cấp đến các vấn đề có liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; vì vậy, việc triển khai thực hiện Đề án thể hiện ở những Đề án nhánh cho từng lĩnh vực, từng thời kỳ và có lộ trình phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời phải xây dựng và tổ chức thực hiện một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các cơ chế, chính sách và giải pháp nêu trong Đề án. Có như vậy những vấn đề có tính định hướng lớn, cơ bản và khái quát trong Đề án mới được làm rõ hơn, cụ thể hơn và chi tiết hơn.
2. Về cấu trúc hệ thống thương nhân
Đa số ý kiến nhất trí như Đề án. Số ít ý kiến cho rằng không nên thành lập các doanh nghiệp chuyên doanh và doanh nghiệp theo mô hình Công ty "mẹ", Công ty "con" do quan hệ giữa sản xuất và lưu thông đã có nhiều thay đổi. Ý kiến của Bộ Thương mại là nước ta đang áp dụng mô hình các Tổng Công ty, Công ty chuyên doanh theo một số mặt hàng, nhóm hàng thiết yếu như lương thực, cà phê, cao su, đường, xăng dầu v.v... và hoạt động khá hiệu quả. Mặc dù chuyên doanh theo một số mặt hàng, nhóm hàng thiết yếu là hoạt động chính nhưng các doanh nghiệp đó vẫn có thể tiến hành các hướng dẫn sản xuất, kinh doanh khác theo nhu cầu của thị trường, theo khả năng và điều kiện của doanh nghiệp. Quán triệt Nghị quyết TƯ3 (Khoá IX), Bộ Thương mại cho rằng việc thành lập các Tổng Công ty, Công ty chuyên doanh quy mô lớn, tiềm lực mạnh theo hướng quy tụ các doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng, nhóm hàng thuộc diện thiết yếu là rất cần thiết, nhất là trong tiến trình hội nhập và mở cửa với kinh tế và thương mại quốc tế; tuy không thành lập mới các doanh nghiệp nhà nước trong thương mại nhưng phải đánh giá, phân loại, sắp xếp, củng cổ tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có, đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê cho Quyết định 183/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết nói trên, đồng thời củng cố các đơn vị, cơ sở kinh doanh trực thuộc các Tổng Công ty, Công ty có trụ sở đóng tại thành phố, thị xã v.v...
3. Về hệ thống giải pháp, chính sách
- Có ý kiến đề nghị nên bổ sung thêm một số nội dung về sản xuất nông nghiệp như trồng cây gì, con gì, mô hình sản xuất thế nào, sản xuất ra những hàng hoá gì, quy cách, chủng loại, mẫu mã, bao bì ra sao v.v... Bộ Thương mại cho rằng, đúng là thương mại luôn gắn với sản xuất, giữa chúng có quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Nhưng đề án này liên quan nhiều đến chức năng, nhiệm vụ của ngành thương mại. Những vấn đề về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có Đề án riêng, vì vậy không nên đưa vào Đề án này.
- Có ý kiến đề nghị nên đề xuất thêm các chính sách đặc thù đối với miền núi. Bộ Thương mại cho rằng, ngoài chính sách chung áp dụng đối với tất cả các địa bàn, chính sách đặc thù đối với thương mại miền núi đã có trong NĐ20/1998/NĐ-CP và Nghị định 02/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 20 với các quy định khá cụ thể và khá toàn diện. Nếu hướng dẫn cụ thể và tổ chức thực hiện đầy đủ hai Nghị định nêu trên, thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc sẽ có bước phát triển mới. Trong kế hoạch triển khai thực hiện đề án kèm theo Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ cũng đã có sự phân công cụ thể việc tổ chức thực hiện các Nghị định nêu trên.
4. Về hình thức văn bản đa số nhất trí như dự thảo Đề án, có ý kiến đề nghị Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ gói gọn trong một trang, sau đó kèm theo toàn bộ nội dung Đề án. Bộ Thương mại cho rằng, nếu làm như vậy thì rất khó triển khai thực hiện do Đề án đề cập nhiều vấn đề, dung lượng thông tin lớn; trong khi Quyết định phê duyệt chỉ tập trung vào những vấn đề cốt lõi nhất, cụ thể và ngắn gọn hơn nhiều so với toàn bộ đề án nêu việc chỉ đạo tổ chức thực hiện dễ dàng hơn và đó cũng là hình thức đã được sử dụng hợp lý và thường xuyên trong hoạt động lập quy của Chính phủ. Chính vì vậy, Bộ Thương mại đề nghị được giữ nguyên hình thức như dự thảo Quyết định đã trình Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Thương mại xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả góp ý của một số cơ quan, đoàn thể đối với dự thảo đề án và Quyết định phê duyệt cùng ý kiến giải trình về một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký ban hành Quyết định phê duyệt Đề án và cho ý kiến chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện ở các ngành, các cấp trong phạm vi cả nước như Tờ trình Thủ tướng của Bộ trưởng Bộ Thương mại số 1577/Tr-BTM ngày 26 tháng 4 năm 2002.
|
K/T BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI |
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số /2002/QĐ-TTg |
Hà Nội, ngày tháng năm 2002 |
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN TIẾP TỤC TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC, TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN ĐẾN NĂM 2010
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 7 tháng 1 năm 2002;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phê duyệt Đề án "Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010" với những nội dung chủ yếu như sau:
I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC ĐẾN NĂM 2010
1. Mục tiêu tổng quát
Củng cố, mở rộng thị trường trong nước gắn kết với thị trường ngoài nước, bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt, đáp ứng đủ nhu cầu những mặt hàng trọng yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân; tiêu thụ ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá, nhất là nông sản, góp phần nâng cao sức mua, nhất là của thị trường nông thôn và đẩy mạnh xuất khẩu; phát huy vai trò của các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế thích ứng với từng thị trường hàng hoá và địa bàn trong môi trường kinh doanh bình đẳng, an toàn và thuận lợi, phù hợp với xu thế hội nhập với khu vực và thế giới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Mục tiêu cụ thể
1- Duy trì nhịp độ phát triển lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội 13-14%/năm thời kỳ 2001 - 2005 và 14 - 15%/ năm thời kỳ 2006 - 2010; phấn đấu đưa chỉ tiêu bán lẻ hàng hoá và dịch bụ bình quân đầu người hàng năm ở khu vực nông thôn tăng nhanh về số tương đối và đạt trên 3 lần về số tuyệt đối so với hiện nay vào năm 2010; có nhiều mặt hàng đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
2- Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 5%/năm trong cả hai thời kỳ, từng bước hạn chế mức độ gia tăng tỷ giá cánh kéo giữa hàng công nghiệp và dịch vụ với hàng nông sản.
3- Các kênh lưu thông được củng cố, mở rộng với đội ngũ thương nhân có năng lực cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước; vai trò nòng cốt và dẫn dắt thị trường của thương mại nhà nước được thực hiện thông qua việc nắm giữ phần lớn thị phần bán buôn và phần lớn tỷ trọng xuất, nhập khẩu đối với những mặt hàng trọng yếu. Mở rộng mạng lưới thương mại của mọi thành phần kinh tế trên cả ba địa bàn, đặc biệt là nông thôn và miền núi; hình thành các kênh lưu thông hợp lý trên cơ sở gắn kết thương mại với sản xuất để hàng hóa đến với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu bằng con đường ngắn nhất, thời gian nhanh nhất và chi phí thấp nhất.
4- Củng cố, phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ thương mại, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chợ ở nông thôn, miền núi, trước hết là các chợ huyện, chợ cụm xã và xã, đồng thời phát triển các chợ buôn bán tập trung, các siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm giao dịch hàng hoá và thương mại điện tử, trước hết là ở các thành phố, thị xã và các vùng kinh tế trọng điểm.
5- Tăng cường kỷ cương, trật tự thị trường; ngăn chặn tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Phấn đấu xây dựng nền thương mại và thị trường ngày càng phát triển theo hướng công bằng, dân chủ, văn minh, hiện đại và bền vững; chuẩn bị đầy đủ cơ sở kinh tế - xã hội của thị trường trong nước phục vụ quá trình hội nhập với thị trường quốc tế.
6- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế; đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ, phương thức và cơ chế hoạt động của hệ thống quản lý nhà nước về thương mại nói chung, về thương mại và thị trường trong nước nói riêng.
II. ĐỊNH HƯỚNG CẤU TRÚC LẠI CÁC HỆ THỐNG THƯƠNG NHÂN TRÊN PHẠM VI THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC ĐẾN NĂM 2010
1. Củng cố, hình thành và phát triển các doanh nghiệp chuyên doanh xuyên suốt cả nước theo mặt hàng, nhóm háng hoặc ngành nghề, lĩnh vực chính yếu.
- Định hướng cơ bản là vừa lựa chọn, củng cố và hoàn thiện các tổng công ty, công ty hiện nay, vừa hình thành mới để có những doanh nghiệp lớn mạnh, theo mô hình Tập đoàn, Tổng công ty, Hãng, Công ty "mẹ" và công ty "con" chuyên doanh toàn quốc theo một số mặt hàng, nhóm hàng chính yếu hoặc chuyên doanh toàn quốc về ngành nghề lĩnh vực chính yếu là xuất - nhập khẩu. Trong hệ thống tổ chức của từng doanh nghiệp có các đơn vị thành viên bố trí tại các thị trường trọng điểm các vùng, miền hoặc toàn quốc với mạng lưới phân phối - tiêu thụ gắn liền với hệ thống kết cấu hạ tầng như hệ thống kho, cảng và các trung tâm giao dịch hàng hoá, trung tâm thương mại và các loại hình chợ. v.v.
- Ưu tiên áp dụng mô hình này trước hết cho những ngành nghề lĩnh vực và nhóm hoặc mặt hàng trọng yếu, có ý nghĩa bảo đảm về kinh tế và xã hội, có tác động chi phối tới sản xuất và đời sống, có ảnh hưởng quyết định đến các cân đối vĩ mô mà Nhà nước cần nắm giữ chủ yếu thị phần bán buôn và tỷ trọng xuất - nhập khẩu, những ngành nghề, lĩnh vực và nhóm hoặc mặt hàng có lợi thế so sánh ở tầm quốc gia, đem lại tích lũy lớn cho ngân sách, liên quan đến lợi ích của đông đảo nhân dân lao động và phục vụ việc thực hiện các chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hoá và phát triển kinh tế đất nước, bảo đảm cơ sở kinh tế - xã hội cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tiếp tục đổi mới mạng lưới thương nhân phù hợp với đặc điểm, điều kiện nhu cầu và khả năng của từng thị trường địa bàn và vũng lãnh thổ.
Cấu trúc thương nhân ở thị trường các thành phố, thị xã gồm có các cơ quan đầu não và các đơn vị thành viên của mô hình Tập đoàn, Tổng Công ty, Hãng, Công ty "mẹ" và Công ty "con" hoạt động xuyên suốt cả nước (nêu tại điểm 1); các doanh nghiệp mà chức năng sản xuất chế biến là chủ yếu, các doanh nghiệp thương mại thuộc mọi thành phần kinh tế; Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại và các Hợp tác xã thành viên; cá nhân và hộ kinh doanh; các loại hình tổ chức kinh doanh thương mại hoặc phục vụ kinh doanh thương mại cùng kết cấu hạ tầng thương mại, trong đó quan trọng nhất là chợ lớn, siêu thị, nhà máy sản xuất, xí nghiệp chế biến, tổng kho, trung tâm giao dịch hàng hoá, trung tâm thương mại, trung tâm xúc tiến, quảng cáo và môi giới v.v.
Riêng hệ thống doanh nghiệp nhà nước về thương mại được tổ chức lại theo hướng: tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ sẽ hình thành một tổng công ty kinh doanh thương mại tổng hợp; tại các thành phố, thị xã còn lại sẽ hình thành một công ty thương mại tổng hợp và một số công ty chuyên doanh (về vật tư nông nghiệp và nông sản thụ phẩm, về xuất - nhập khẩu...). Các doanh nghiệp này vừa kinh doanh xuất - nhập khẩu vừa lưu thông nội địa; vừa thực hiện chức năng trung tâm phân phối bán lẻ, vừa thực hiện chức năng trung tâm thu hút và phát luồng bán buôn (thông qua hệ thống công ty, chi nhánh, cửa hàng, điểm mua bán đến tận thị trấn, thị tứ, cụm xã và gắn với các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm giao dịch, kho bãi, cơ sở sản xuất - chế biến); làm đầu mối hội tụ và lan tỏa đối với thị trường tỉnh và thành phố, tác động tới cả thị trường vùng, miền và toàn quốc.
Đối với thị trường nông thôn (từ huyện đến xã) tổ chức lại lưu thông hàng hoá trên cơ sở phát triển các loại hình thương nhân quy mô nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó thương mại tư nhân và thương mại tập thể là phổ biến, hoạt động thương mại kiêm cả sản xuất - chế biến nhưng sơ chế, dự trữ ngắn và dự trữ nhỏ là chủ yếu, lấy chợ là không gian chính để tổ chức kinh doanh, dần hình thành các mô hình thương mại điển hình cho thị trường nông thôn như mô hình thương mại thị trấn, thị tứ với chức năng chính là mở đầu kênh tiêu thụ nông sản và kết thúc kênh cung ứng vật tư và hàng tiêu dùng.
III. TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN, TRỌNG TÂM LÀ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2005
1. Mục tiêu
- Gắn kết sản xuất - chế biến với thị trường tiêu thụ, áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và cho xuất khẩu.
- Phát triển thị trường tiêu thụ nông, lâm, thủy sản trong nước trên cơ sở tạo điều kiện tăng thu nhập của nhân dân và thực hiện cơ chế lưu thông thông thoáng, phương thức lưu thông thích hợp và mạng lưới lưu thông rộng rãi, bảo đảm tiêu thụ phần lớn hàng hoá do nông dân sản xuất ra.
- Tổ chức lại hệ thống thương mại từ huyện đến xã; hoàn thành việc xây dựng các trung tâm thương mại thị trấn, cụm thương mại thị tứ tại các huyện trọng điểm với sự đa dạng của loại hình kinh doanh và loại hình thương nhân, trong đó chủ yếu là thương mại hợp tác xã và thương mại tư nhân.
- Đẩy mạnh việc xây dựng các chợ và cửa hàng tại các trung tâm cụm xã và xã; phấn đấu các xã đều có chợ để phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân; hình thành và phát triển các chợ huyện, các chợ đầu mối bán buôn ở các vùng kinh tế trọng điểm, sản xuất hàng hoá tập trung; củng cố và xây dựng mạng lưới chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu để tăng cường các hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá với các nước láng giềng.
- Hoàn thành cơ bản việc củng cố; sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước hoạt động thương mại trên địa bàn nông thôn, chủ yếu kinh doanh trên các mặt hàng, nhóm hàng, ngành nghề, các lĩnh vực và địa bàn mà thương nhân thuộc các thành phần khác không đủ sức hoặc không muốn đầu tư, kinh doanh để dẫn dắt và hỗ trợ các thành phần thương nhân này cùng thương mại nhà nước thúc đẩy thị trường nông thôn phát triển sâu rộng.
- Tăng cường liên kết kinh tế giữa thương mại nhà nước với thương mại hợp tác xã và thương mại thuộc các thành phần kinh tế khác, thực hiện ngày càng tốt hơn dịch vụ đầu vào và đầu ra, đẩy mạnh tiêu thụ và cung ứng hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sản xuất và người tiêu dùng ở nông thôn.
2. Mô hình tổ chức thương mại nông thôn
a) Củng cố và phát triển thương mại nông thôn trên cơ sở phát triển các mạng lưới sau:
+ Mạng lưới chân rết là các đơn vị trực thuộc các doanh nghiệp - sản xuất chế biến và lưu thông của mọi thành phần kinh tế (doanh nghiệp chuyên ngành trên phạm vi cả nước hoặc gắn kết với địa bàn vùng lãnh thổ, nằm tại các thành phố, thị xã đã nêu trên đây).
+ Mạng lưới hợp tác xã các loại với quy mô và cấp độ khác nhau như hợp tác xã nông nghiệp - thương mại - dịch vụ, hợp tác xã thương mại - dịch vụ, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã - dịch vụ... ở các xã và cụm xã.
+ Mạng lưới thương mại tư nhân, kể cả hộ nông dân vừa sản xuất vừa kinh doanh thương mại - dịch vụ có mặt ở khắp các xã, cụm xã.
+ Mạng lưới chợ nông thôn với trung tâm là chợ thị trấn và vệ tinh xung quanh là các chợ thị tứ.
b) Xây dựng mô hình thương mại nông thôn hai cấp độ: Trung tâm thương mại - dịch vụ thị trấn và Cụm thương mại - dịch vụ thị tứ trên cơ sở quy hoạch và phát triển đầy đủ, đồng bộ, hợp lý các mạng lưới (nêu tại điểm a), trong đó lấy chợ làm trung tâm, xoay quanh chợ là các công ty, chi nhánh, cửa hàng, điểm mua, bán, kho, cơ sở sản xuất - chế biến, hợp tác xã, đơn vị đại lý... để qua đó thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ và trực tiếp giữa thương mại với sản xuất nông nghiệp, giữa thương nhân với hộ gia đình nông dân, giải quyết một cách cơ bản nhu cầu chế biến cũng như tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng và dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, mở rộng và phát triển thị trường nông thôn.
c) Đối với địa bàn nông thôn ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể để duy trì, củng cố doanh nghiệp thương mại nhà nước phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào với mô hình là công ty hoặc chi nhánh, cửa hàng đặt ở thị trấn, có điểm mua bán đặt tại các thị tứ, cụm xã và chợ xã hoạt động kinh doanh tổng hợp. Bên cạnh hệ thống tổ chức kinh doanh thương mại của Nhà nước, đặt biệt chú trọng phát triển chợ phiên ở cụm xã và xã, coi đó là kết cấu hạ tầng thương mại cơ bản là mô hình tổ chức thương mại điển hình và đặc thù ở miền núi; củng cố và phát triển các loại hình hợp tác xã hoạt động kinh doanh tổng hợp, gắn vai trò và phương thức hoạt động của hợp tác xã với việc mua, bán các mặt hàng chính sách ở những nơi có khó khăn và tạo điều kiện cho sự phát triển của mô hình trang trại, kinh tế chăn nuôi đại gia súc, kinh tế vườn rừng của hộ gia đình ở những nơi có thuận lợi.
d) Các doanh nghiệp thương mại nhà nước đặt tại các thành phố, thị xã sẽ từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động hướng về thị trường nông thôn, miền núi thông qua hệ thống trực thuộc của mình là các chi nhánh, cửa hàng, trạm trại, xí nghiệp, cơ sở sản xuất - chế biến, kho bãi, điểm cung ứng và thu mua tại các thị trấn, thị tứ, cụm xã và xã.
3. Giải pháp chủ yếu phát triển thương mại nông thôn.
3.1. Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa thị trường nông sản trong nước và thị trường nông sản ngoài nước.
a) Xác định đúng lợi thế so sánh cũng như năng lực cạnh tranh của các mặt hàng cụ thể, của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cụ thể và trên các lĩnh vực cụ thể, từ đó lựa chọn và quyết định phương án phát triển: vừa đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia vững chắc vào tiến trình hội nhập, vừa thay thế nhập khẩu và bảo hộ sản xuất, lưu thông nông sản hàng hoá trong nước một cách có lợi nhất cho cả nhà nước, doanh nghiệp và nông dân.
b) Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực hiện có, đồng thời khẩn trương triển khai các chương trình, dự án phát triển sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng nông sản tiềm năng, các mặt hàng nông sản phổ biến ở khắp mọi miền nông thôn cả nước. Thay thế nhập khẩu những mặt hàng nông sản mà sản xuất trong nước dồi dào về nguồn lực và đủ sức cạnh tranh. Bảo hộ sản xuất kinh doanh một cách hợp lý, có thời hạn và có chọn lọc những hàng hoá nông sản và ngành nghề có quan hệ mật thiết tới lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích chủ yếu của đông đảo nông dân. Kết hợp việc nghiên cứu xây dựng các chủ trương, giải pháp cụ thể để xử lý các mối quan hệ lớn trên đây với việc tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn tiêu dùng để đổi mới, gia tăng và kích cầu về hàng nông sản.
c) Xác định lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết trong các hiệp định song phương và đa phương về quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu và quyền phân phối của thương nhân nước ngoài về hàng nông sản và trên thị trường nông thôn.
3.2. Chính sách khuyến khích, hỗ trợ thương nhân kinh doanh trên địa bàn nông thôn
a) Chính sách tín dụng và đầu tư
- Chuyển đổi cơ cấu đầu tư, tăng mạnh đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình trọng điểm thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ kinh doanh thương mại ở nông thôn bao gồm đường sá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ (bước đầu tập trung xây dựng, nâng cấp các chợ huyện với quy mô vừa (chợ loại II) đủ sức quy tập hàng nông sản và phát luồng vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng trong phạm vi huyện), trung tâm buôn bán hàng nông sản, kho chứa, sân phơi, lò sấy, hệ thống bảo quản, chế biến, bến cảng sông biển, phương tiện vận tải chuyên dùng, cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng để thương nhân các thành phần kinh tế có điều kiện mở rộng kinh doanh, tiêu thụ ngày càng nhiều nông sản hàng hóa của nông dân, phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
- Tăng đầu tư cho hoạt động xúc tiến thương mại, phân tích, dự báo thông tin thị trường, giá cả trong và ngoài nước; cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nhân lực, nghiên cứu tiếp thị mở rộng thị trường tiêu thụ nông, lâm, thủy sản v.v., hỗ trợ toàn bộ phí truy cập Internet cho tất cả các Sở Thương mại và có kinh phí thoả đáng để các Sở này phổ biến thông tin rộng rãi đến các hộ nông dân qua hình thức phát hành bản tin định kỳ hoặc các phương tiên thông tin đại chúng của địa phương, giúp họ có định hướng rõ ràng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cũng như đầu tư sản xuất.
- Cải tiến việc chi hỗ trợ phát triển thị trường và xúc tiến thương mại theo hướng dành toàn bộ khoản này cho các chương trình trọng điểm của Nhà nước, nhất là những chương trình khuếch trương mặt hàng xuất khẩu mới hoặc thâm nhập thị trường mới.
- Thành lập quỹ bảo hiểm một số hàng nông sản chủ lực để trợ giúp người sản xuất khi gặp rủi ro bất khả kháng, hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ sản phẩm hàng hoá trong trường hợp giá xuống thấp không tiêu thụ được.
b) Chính sách đất đai
- Xác lập cơ sở pháp lý cho việc tập trung ruộng đất và có quy hoạch cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thuê đất để xây dựng cơ sở vật chất nhằm xây dựng các công trình phục vụ kinh doanh thương mại, phục vụ cho thu mua, bảo quản và chế biến nông sản v.v. ở khu vực nông thôn.
- Khẩn trương cấp giấy chứng nhận sở hữu và giấy chứng nhân quyền sử dụng đất, sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục thế chấp, phát mại nhà, đất để thương nhân hoạt động ở đại bàn nông thôn có điều kiện vay vốn ở ngân hàng và yên tâm trong việc đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.
- Sửa đổi quy định của Nhà nước về khung giá đất sát với giá trị quyền sử dụng đất đai trong từng thời kỳ, làm cơ sở cho việc giao dịch giữa các tổ chức tín dụng và các chủ thể kinh doanh.
c) Chính sách xúc tiến thương mại, thông tin và tiếp thị
- Tạo điều kiện để tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tham tán thương mại, tăng cường đại diện tham tán thương mại tại các khu vực thị trường trọng điểm nhằm góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước xâm nhập thị trường nước ngoài. Khẩn trương hướng dẫn việc tổ chức các cơ quan xúc tiến thương mại, các trung tâm giới thiệu, quảng cáo hàng hoá ở địa phương và kể cả ở nước ngoài.
- Phối kết hợp hệ thống xúc tiến thương mại với hệ thống khuyến nông, khuyến lâm để cung cấp thông tin và dự báo thị trường trong và ngoài nước đối với những mặt hàng nông, lâm, thủy sản chủ lực, các thông tin về thị hiếu, chính sách thuế, phi thuế, các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá của khách hàng để định hướng sản xuất làm ra các sản phẩm phù hợp và có sức cạnh tranh cao, tìm kiếm thị trường, chắp nối bạn hàng, giới thiệu đối tác, quảng cáo, triển lãm cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã và gia đình nông dân.
- Xây dựng và kết nối mạng thông tin giữa Bộ Thương mại với các địa phương, trước mắt là giữa Bộ với các thành phố lớn, các tỉnh đại diện và điển hình cho các vùng và tiểu vùng kinh tế, các tỉnh trọng điểm về nông nghiệp, các tỉnh có biên giới - cửa khẩu lớn.
- Tiếp tục phát triển các hiệp hội thương nhân để phối hợp thông tin thị trường và giá cả, tạo lập các cơ hội tiêu thụ sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá và của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thực hiện một cách có hệ thống các chương trình giới thiệu, tuyên truyền và hướng dẫn tiêu dùng nông sản thực phẩm gắn với công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý chất lượng hàng hoá theo hướng tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá bằng tiêu chuẩn chất lượng và các quy chế cụ thể thay cho các biện pháp hành chính. Đa dạng các hình thức tổ chức thử nghiệm, thí điểm và đẩy mạnh quảng bá các nông sản mới, nông sản sạch, nông sản chất lượng cao. Kết hợp định hướng tiêu dùng với kích thích gia tăng nhu cầu về hàng hoá nông sản.
d) Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực thương mại
- Sớm ban hành quy định tiêu chuẩn cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước nói chung, trong thương mại nói riêng, trên cơ sở đó các doanh nghiệp xây dựng quy hoạch và kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo phù hợp.
- Có chính sách bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ thương mại cấp huyện.
- Quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, chuyên môn và quản trị kinh doanh cho giới chủ kinh doanh không phân biệt các thành phần kinh tế, trước hết là đội ngũ nhân lực của các công ty và hợp tác xã từ các nguồn đào tạo của Nhà nước và hợp tác xã quốc tế để hình thành dần đội ngũ doanh nhân đủ trình độ, năng lực, đồng thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân kinh doanh giỏi.
đ) Chính xác ưu đãi, khuyến khích thương nhân kinh doanh ở địa bàn miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc
Tổ chức thực hiện tốt Nghị định 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 và Nghị định 02/2002/NĐ-CP ngày 3/1/2002 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 20/2002/NĐ-CP) về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và đồng bào dân tộc, đặc biệt là các chính sách về tín dụng, thuế, trợ giá, trợ cước, bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp thương mại ở miền núi và chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng và đãi ngộ cán bộ thương mại miền núi.
3.3. Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả của các hình thái tổ chức kinh doanh thương mại
a) Phân loại và quy hoạch phát triển mạng lưới chợ thích ứng với quy hoạch phát triển thương mại của từng địa phương:
- Ở thị xã, thành phố chú trọng quy hoạch phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật và hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý các chợ trung tâm, chợ đầu mối bán buôn chuyên doanh, chợ bán lẻ hàng tiêu dùng hàng ngày phục vụ khu dân cư cùng với hệ thống các siêu thị, cửa hàng tự chọn.
- Ở nông thôn tập trung quy hoạch phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật, đầu tư xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý các chợ thị trấn, thị tứ, cụm xã và xã nằm trong cấu trúc các cụm hoặc trung tâm thương mại - dịch vụ quy mô thị tứ, thị trấn. Từng bước hình thành các chợ bán buôn tập trung, chợ đấu giá, chợ chuyên theo mặt hàng (chợ trái cây, chợ hoa, chợ rau, chợ gia súc - gia cầm, chợ lúa gạo...) các trung tâm giao dịch nông sản và vật tư hàng hoá tại các vùng nông sản trọng điểm và các vùng nông thôn ven đô; củng cố và mở rộng các chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, chợ cửa khẩu và chợ biên giới.
b) Cải tạo, nâng cấp mạng lưới mua - bán cố định cùng với việc tổ chức rộng rãi các đơn vị mua - bán lưu động của các thành phần kinh tế, sử dụng các phương thức mua - bán đại lý, mua - bán trả góp, trả chậm; phát huy tác dụng của các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triển lãm, quảng cáo, khuyến mãi v.v. để kích cầu nông sản và vật tư, hàng tiêu dùng trên thị trường nông thôn.
c) Tạo điều kiện để thương nhân thuộc các thành phần kinh tế (trước hết là các doanh nghiệp lớn) tiếp cận, chuẩn bị cơ sở vật chất - kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực nhằm từng bước tham gia vào kênh lưu thông trên mạng (thương mại điện tử) và các hình thái kinh doanh thương mại tiên tiến khác.
d) Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh chế biến và lưu thông thuộc các thành phần kinh tế ký kết và thực hiện các hợp đồng tiêu thụ, hợp đồng hai chiều với hợp tác xã hoặc với nông dân, gắn kết cho được sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu, mở rộng và tạo điều kiện để hộ nông dân, kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá nông sản được sản xuất theo hợp đồng.
3.4 Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại
- Sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của thương nhân, đặc biệt là Luật Thương mại, Luật Hợp tác xã và các Nghị định hướng dẫn. Tiếp tục rà soát và kiên quyết bãi bỏ các quy định hiện hành không phù hợp với Luật Doanh nghiệp. Sớm ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Luật Sử dụng vốn nhà nước v.v.
- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở Trung ương, nhất là giữa Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách và đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm khuyến khích, hỗ trợ thương nhân thuộc các thành phần kinh tế trong hoạt động tìm kiếm, mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh v.v.
- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Sở Thương mại và mối quan hệ với các cơ quan có liên quan, trên cơ sở đó xây dựng mô hình quản lý phù hợp, nhất là tổ chức quản lý thương mại cấp huyện. Để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình các Sở Thương mại cần được bổ sung, hỗ trợ các nguồn lực, nhất là tài chính và cán bộ.
- Tiếp tục củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm tốt công tác quản lý thị trường tại các địa phương. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đội quản lý thị trường nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi kinh doanh trái pháp luật như buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người sản xuất, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
3.5 Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của thương mại nhà nước và thương mại hợp tác xã, đồng thời phát triển các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế khác.
a) Đối với thương mại nhà nước, định hướng tổ chức lại theo các nhóm doanh nghiệp chuyên doanh và tổng hợp, gắn chặt với quy luật thị trường của hàng hoá hoặc của địa bàn, vũng lãnh thổ như sau:
+ Nhóm tập đoàn, tổng công ty, hãng, công ty "mẹ" và "con" chuyên kinh doanh theo mặt hoặc nhóm hàng chính yếu hoạt động trên phạm vi thị trường cả nước;
+ Nhóm tổng công ty, công ty "mẹ" và "con" chuyên kinh doanh chính yếu về xuất, nhập khẩu hoạt động trên phạm vi thị trường cả nước;
+ Nhóm tổng công ty, công ty thương mại tổng hợp (tuỳ theo nhu cầu và khả năng của từng địa phương mà có thể có các công ty chuyên doanh nông sản, vật tư phục vụ nông nghiệp, chuyên doanh xuất nhập khẩu...) hoạt động tại thị trường các thành phố, thị xã.
- Về mặt sở hữu, trong ba nhóm doanh nghiệp thương mại nêu trên, Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối với doanh nghiệp sản xuất và lưu thông các mặt hàng, nhóm hàng thiết yếu, có vị trí và vai trò quan trọng và kinh tế - xã hội, trong cả sản xuất và đời sống "chẳng hạn như bán buôn xăng dầu, bán buôn lương thực, kinh doanh các mặt hàng chính sách hoạt động, hoạt động ở địa bàn miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng sâu, vùng xa..." và chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn. Các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sẽ được củng cố, sắp xếp theo hướng cổ phần hóa, trong đó tuỳ thuộc nhu cầu và khả năng mà Nhà nước có thể có cổ phần chi phối, cổ phần ưu đãi, cổ phần lớn, cổ phần đặc biệt và cổ phần bình thường hoặc không có cổ phần. Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hóa được, tuỳ điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định xử lý theo một trong các hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. Những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả nhưng không thực hiện được các hình thức xử lý này thì giải quyết theo hướng sáp nhập, giải thể hoặc tuyên bố phá sản.
- Việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của thương mại nhà nước ở thị trường nông thôn (từ huyện đến xã) thực chất là sắp xếp và củng cố mạng lưới chân rết bên dưới của ba nhóm tổng công ty, công ty thương mại trên đây. Cụ thể là:
a.1) Đối với thương mại nhà nước ở các huyện nông thôn đồng bằng, vì trên địa bàn này thương mại ngoài quốc doanh đã phát triển khá đông đảo và rộng khắp, đủ sức bảo đảm lưu thông hầu hết các mặt hàng phục vụ cả đời sống và sản xuất của cư dân nông thôn, nên việc củng cố và phát triển thương mại nhà nước có thể theo phương hướng sau đây:
+ Duy trì, củng cố và mở rộng các cơ sở kinh doanh chân rết bên dưới (chủ yếu là chi nhánh, cửa hàng) của các Tập đoàn, Hãng, Tổng Công ty, Công ty chuyên doanh theo mặt hàng, nhóm hàng và chuyên doanh xuất, nhập khẩu xuyên suốt cả nước hoặc gán kết theo địa bàn, vùng lãnh thổ (nằm tại các thành phố, thị xã) và bố trí lại các cơ sở này tại các Trung tâm thương mại thị trấn và Cụm thương mại thị tứ.
+ Duy trì một số đơn vị của thương mại nhà nước chuyên kinh doanh một số mặt hàng như dược phẩm, dụng cụ y tế, sách và thiết bị trường học v.v... tại khu vực thị trấn và thị tứ.
+ Đánh giá, lựa chọn, sắp xếp, sáp nhập và củng cố các cơ sở hiện đang kinh doanh thương mại tổng hợp hoặc chuyên doanh thành một hoặc hai chi nhánh, cửa hàng (hoặc công ty con - đối với những huyện nông nghiệp trọng điểm, huyện chuyên canh nông sản tập trung, huyện kinh tế nông thôn phát triển) trực thuộc các tổng công ty, công ty ở thành phố và thị xã, đặt tại thị trấn và bên dưới là các cửa hàng, điểm mua bán đặt tại các thị tứ. Các cơ sở kinh doanh thương mại này tập trung vào cung ứng vật tư thiết yếu phục vụ sản xuất chế biến và tiêu thụ các nông sản chủ lực, có sản lượng lớn, tạo thành nguồn cung cấp chính cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu.
Hoạt động chủ yếu của thương mại nhà nước ở thị trấn, thị tứ là cung ứng những vật tư đầu vào thiết yếu cho sản xuất và một số hàng tiêu dùng quan trọng, tham gia sản xuất - chế biến nông sản, tiêu thụ những nông sản chủ lực theo hợp đồng hai chiều, hợp đồng đầu tư sản xuất và bao tiêu sản phẩm, hợp đồng gia công nông sản hàng hoá, hợp đồng cung ứng trước và thu mua sau để phát huy vai trò đối tác với nông dân, đối trọng với các thành phần kinh tế khác và định hướng, điều tiết, chi phối và thúc đẩy thị trường nông thôn phát triển.
a.2) Đối với thương mại nhà nước tại các huyện nông thôn miền núi, ngoài mô hình chung giống như nông thôn đồng bằng có thể được tổ chức lại theo một trong hai mô hình dưới đây:
+ Mô hình một doanh nghiệp: trên địa bàn toàn tỉnh có thể duy trì một doanh nghiệp thương mại kinh doanh tổng hợp bao gồm cả hoạt động lưu thông hàng hoá nội địa, xuất nhập khẩu và phục vụ miền núi. Sơ đồ tổ chức là: Công ty đặt tại tỉnh - Cửa hàng trực thuộc đặt tại huyện - Mạng lưới điểm mua, bán trực tiếp đặt tại xã, cụm xã.
+ Mô hình nhiều doanh nghiệp: trên địa bàn toàn tỉnh có thể duy trì một số doanh nghiệp thương mại kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh, trong đó bao gồm cả hoạt động lưu thông hàng hoá nội địa, xuất - nhập khẩu và phục vụ miền núi. Sơ đồ tổ chức là: Công ty đặt tại tỉnh cửa hàng trực thuộc đặt tại huyện - Mạng lưới điểm mua, bán trực tiếp đặt tại xã, cụm xã.
- Thương mại nhà nước tiếp tục mở rộng mạng lưới mua, bán trực tiếp đến cụm xã và trong điều kiện có thể, phấn đấu phát triển mạng lưới đến xã. Điểm mua - bán của thương mại nhà nước phải gắn với chợ (ở những nơi đã có chợ) hoặc phải nằm trong các quy hoạch chợ. Đặc biệt chú trọng phát triển mạng lưới đại lý, sử dụng các thành phần kinh tế và các lực lượng tại chỗ làm đại lý nhằm phục vụ nhu cầu của sản xuất và đời sống của cư dân trên từng địa bàn.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với những doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động kinh doanh đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
b) Đối với hợp tác xã thương mại - dịch vụ, việc thành lập các hợp tác xã là do nhu cầu hợp tác của cá nhân, hộ gia đình trong sản xuất, kinh doanh. Các hợp tác xã tự quyết định hình thức tổ chức và nội dung kinh doanh cho phù hợp với điều kiện và khả năng của từng nơi và quy định của pháp luật theo định hướng dưới đây:
+ Ở khu vực nông thôn đồng bằng, có thể tổ chức theo 2 loại hình sau:
- Phát triển các hợp tác xã đa chức năng (trong đó có hoạt động thương mại) hoặc hợp tác xã dịch vụ tổng hợp không phụ thuộc vào địa giới hành chính, chú trọng mô hình hợp tác xã Nông nghiệp - Thương mại - Dịch vụ hoạt động chủ yếu là dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp (những dịch vụ mà hợp tác xã thực hiện có hiệu quả hơn là cá nhân, hộ gia đình thực hiện).
- Ở khu vực thị trấn, thị tứ hoặc gần khu công nghiệp, vùng ven đô hoặc gần các trục lộ lớn, vùng cảng sông... có thể thành lập các hợp tác xã kinh doanh tổng hợp với quy mô vừa và nhỏ với hoạt động chính là làm đại lý mua bán cho các doanh nghiệp nhà nước và Liên hiệp hợp tác xã kiêm bán lẻ vật tư, hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất và đời sống của cư dân. Riêng những huyện lỵ, thị trấn nằm trong khu vực có kinh tế hộ, kinh tế trang trại và các làng nghề thủ công đã phát triển sản xuất hàng hoá tương đối tập trung thì có thể thành lập các hợp tác xã kinh doanh tổng hợp với quy mô lớn hơn.
+ Ở khu vực nông thôn miền núi, trung du, chú trọng phát triển các hợp tác xã Nông nghiệp - Thương mại - Dịch vụ hoặc hợp tác xã kinh doanh tổng hợp với các hình thức bán lẻ linh hoạt ở trung tâm các cụm xã, trong các chợ ở khu vực biên giới, khu vực kinh tế cửa khẩu, khu du lịch v.v... nhằm cung ứng vật tư nông nghiệp, hàng tiêu dùng thiết yếu, công cụ sản xuất thông thường và hàng chính sách, kết hợp thu mua nông, lâm, thổ sản của kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Những nơi chưa có điều kiện thành lập hợp tác xã (khu vực II, III) có thể phát triển hình thức kinh tế hợp tác ở mức độ thấp hơn như tổ hợp tác mua chung - bán chung, mua chung - bán riêng hoặc các tổ dịch vụ để hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống.
c) Đối với thương mại tư nhân, định hướng tổ chức và phát triển là khuyến khích, thúc đẩy phát triển các loại hình thương mại tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp một cách ổn định, lâu dài, bền vững, có hiệu quả; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể trên thị trường nông thôn (huyện, xã); có chính sách liên kết, hợp tác và từng bước biến lực lượng này thành các đơn vị vệ tinh cho thương mại nhà nước, thương mại hợp tác xã, tập trung vào khâu thu mua và bán lẻ, tăng cường sử dụng các phương thức đại lý mua bán và uỷ thác, phát huy vị trí và vai trò của các thành phần này ở đoạn đầu của kênh tiêu thụ nông sản và ở đoạn cuối của kênh phân phối vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng.
Điều 2. Tổ chức thực hiện Đề án:
1. Bộ Thương mại và các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện các chương trình, dự án cụ thể thuộc phạm vi chỉ đạo của bộ, ngành và địa phương mình liên quan đến nội dung của đề án (nêu tại Điều 1) theo kế hoạch thực hiện kèm theo quyết định này. Định kỳ hàng quý, hàng năm, trong báo cáo đánh giá kết quả công tác của bộ, ngành, địa phương, phải có kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện, phát hiện những khó khăn, trở ngại và tồn tài để đề ra phương hướng và biện pháp khắc phục.
2- Thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án này do một Phó Thủ tướng làm Trưởng Ban, Bộ trưởng Bộ Thương mại làm Phó Trưởng Ban thường trực và thành viên gồm lãnh đạo các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Uỷ ban Dân tộc miền núi, Hội Nông dân Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và một số bộ, ngành có liên quan khác.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TIẾP TỤC TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC, TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN ĐẾN NĂM 2010
(Kèm theo Quyết định số... /2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày... tháng... năm 2002)
Số TT |
Nội dung công việc |
Cơ quan chủ trì |
Cơ quan phối hợp |
Hình thức văn bản |
Thời hạn hoàn thành |
1 |
- Định hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước |
Bộ Thương mại |
Bộ KH và ĐT, Bộ NN và PTNT |
Đề án |
Quý I/2003 |
2 |
- Định hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các HTX trong lĩnh vực thương mại |
Bộ Thương mại |
Bộ NN và PTNT Liên minh HTX VN |
Đề án |
Quý I/2003 |
3 |
- Cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại |
Bộ Thương mại |
Bộ KH và ĐT, Bộ Tài chính, Ngân hàng NNVN, Phòng TM và CN VN |
Đề án |
Quý I/2003 |
4 |
- Xây dựng thí điểm mô hình thương mại nông thôn |
Bộ Thương mại |
Bộ NN và PTNT Liên minh HTX VN, Hội Nông dân Việt Nam |
Đề án |
Quý I/2003 |
5 |
- Quy hoạch phát triển và quản lý chợ |
Bộ Thương mại |
Bộ KH và ĐT, Bộ NN và PTNT, Bộ Tài chính, Ngân hàng NNVN, Ban TC-CB CP |
Nghị định |
Quý III/2002 |
6 |
- Tổ chức và quản lý chợ (kể cả chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, chợ cửa khẩu và chợ biên giới) |
Bộ Thương mại |
Bộ KH và ĐT, Bộ Tài chính, Ngân hàng NNVN, Ban TC-CB CP |
Thông tư của Bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định của Chính phủ về chợ |
Quý IV/2002 |
Số TT |
Nội dung công việc |
Cơ quan chủ trì |
Cơ quan phối hợp |
Hình thức văn bản |
Thời hạn hoàn thành |
7 |
- Tổ chức và quản lý siêu thị, trung tâm thương mại và sàn giao dịch hàng hoá |
Bộ Thương mại |
Bộ KH và ĐT, Bộ Tài chính, Ngân hàng NNVN, Ban TC-CB CP |
Quy chế ban hành theo QĐ của Bộ trưởng |
Quý IV/2002 |
8 |
- Cơ chế bán hàng trả góp, trả chậm vật tư, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp |
Bộ Thương mại |
Bộ Tài chính, Ngân hàng NNVN, Bộ NN và PTNT, Hội Nông dân Việt Nam |
Quyết định của TTCP |
Quý I/2003 |
9 |
- Hướng dẫn thực hiện NĐ 02 về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc |
Bộ Thương mại |
Bộ Tài chính, Ngân hàng NNVN, UBDT và miền núi |
Thông tư |
Quý III/2002 |
10 |
- Hướng dẫn NĐ 02 về chính sách tài chính, tín dụng đối với thương nhân ở địa bàn miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc. |
Bộ Tài chính |
Ngân hàng NN VN, Bộ Thương mại, UBDT và miền núi |
Thông tư |
Quý III/2002 |
11 |
- Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển chợ tập trung buôn bán nông sản, chợ đầu mối,chợ nông thôn trọng điểm, chợ huyện và chợ cụm xã |
Bộ Tài chính |
Bộ KH và ĐT, Bộ Thương mại, Bộ NN và PTNT, Ngân hàng NNVN, Bộ Thuỷ sản |
Thông tư |
Quý IV/2002 |
12 |
- Hướng dẫn hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản, mở rộng các phương thức mua bán với nông dân |
Bộ Thương mại |
Bộ NN và PTNT, Ngân hàng NNVN, Bộ Tài chính, Hội Nông dân Việt Nam |
Thông tư |
Quý IV/2002 |
13 |
- Hướng dẫn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của trung tâm xúc tiến thương mại ở trong nước và nước ngoài |
Bộ Thương mại |
Ban Tổ chức cán bộ - CP |
Thông tư |
Quý IV/2002 |
Số TT |
Nội dung công việc |
Cơ quan chủ trì |
Cơ quan phối hợp |
Hình thức văn bản |
Thời hạn hoàn thành |
14 |
- Phân định chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiêu thụ và xuất khẩu nông sản giữa Bộ Thương mại với Bộ NN và PTNT, Bộ Thuỷ sản và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương |
Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ |
Bộ Thương mại, Bộ NN và PTNT, Bộ Thuỷ sản |
Nghị định |
Quý IV/2002 |
BỘ THƯƠNG MẠI Hà Nội, ngày 19 tháng 06 năm 2002
ĐỀ ÁN
TIẾP TỤC TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC, TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN ĐẾN NĂM 2010
Phần thứ nhất:
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH 10 NĂM QUA VÀ ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC TỔ CHỨC 10 NĂM TỚI CỦA THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
I.- KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC 10 NĂM QUA
Mười năm qua, đặc biệt là từ năm 1996 đến nay, ngành thương mại cùng các ngành, các địa phương đã quán triệt quan điểm, mục tiêu và triển khai các chủ trương, biện pháp lớn của Nghị quyết 12-NQ/TW ngày 3 tháng 1 năm 1996 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương mại, phát triển thị trường theo định hướng XHCN cũng như nhiều phương hướng, đường lối, chính sách của Đảng về thương mại trong các Nghị quyết Đại hội và các nghị quyết Trung ương; đồng thời tổ chức thực thi Luật Thương mại, Luật HTX, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các văn bản pháp quy có liên quan khác. Khái quát lại tình hình 10 năm qua là:
1. Thành tựu và tiến bộ
- Hình thành được một thị trường thống nhất và ổn định trong toàn quốc, hoạt động thương mại sôi động, đáp ứng được các nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ, chuyển sang cơ chế lưu thông mới, từng bước tạo dựng môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lợi, hàng hóa được tự do mua bán, thương nhân được tự do hoạt động theo pháp luật và các quy luật của kinh tế thị trường. Tổ chức và phương thức kinh doanh, phương thức mua bán ngày càng đổi mới, phong phú và linh hoạt hơn. Tại các thị trường tập trung, các thành phố, thị xã, xu hướng tiếp cận với thương nghiệp văn minh hiện đại phát triển tương đối nhanh. Thị trường nông thôn từng bước phát triển và mở rộng với một cấu trúc chủ thể kinh doanh ngày càng đa dạng. Nhiều hàng hoá có khối lượng dồi dào, cơ cấu chủng loại phong phú, quy cách mẫu mã dần được cải tiến, chất lượng dần được nâng cao, phù hợp về cơ bản với đòi hỏi của thị trường. Một số mặt hàng chiếm được vị thế quan trọng và tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
- Phát triển được một đội ngũ thương nhân đông đảo và đa dạng, trong đó thương mại nhà nước được sắp xếp lại, về cơ bản đã thể hiện được vai trò nòng cốt ở những mặt hàng trọng yếu, ở những khâu và lĩnh vực then chốt; thương mại tập thể bước đầu được chú ý khôi phục nhằm thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường; thương mại tư nhân dưới hình thức các công ty, hộ kinh doanh cá thể và đội ngũ tiểu thương tiếp tục phát triển nhanh; doanh nghiệp tư bản nhà nước, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được xác lập và hoạt động có kết quả; tất cả tạo nên một thị trường phức hợp, đan xen lẫn nhiều thành phần và nhiều loại hình thương nhân. Sự liên kết và thâm nhập lẫn nhau giữa thương mại với sản xuất, phù hợp với đặc điểm thương phẩm và quy trình công nghệ sản xuất, kinh doanh của hàng hoá và theo nhu cầu của thị trường đang trở thành một xu hướng tích cực.
- Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục được mở rộng trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế với nhiều quy mô, hình thức tổ chức và hình thức sở hữu khác nhau. Cơ cấu phân bố mạng lưới bước đầu có những chuyển biến tích cực. Chợ và hoạt động thương mại qua chợ phát triển nhanh ở nông thôn và miền núi. Trung tâm thương mại, siêu thị và cửa hàng tự phục vụ, hội chợ - triển lãm thương mại, chợ đầu mối bán buôn tập trung, trung tâm giao dịch hàng hoá đang nảy nở và gia tăng ở khu vực thành thị cũng như ở các vùng kinh tế trọng yếu.
- Kênh lưu thông một số mặt hàng đã bước đầu được định hình và củng cố với sự tham gia đông đảo của các loại hình thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, gắn sản xuất với tiêu thụ, gắn hàng hoá với thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
- Hệ thống quản lý nhà nước về thương mại được quan tâm hơn và từng bước được đổi mới về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy. Hành lang pháp lý cho lưu thông hàng hoá và hoạt động của thương nhân ngày một được bổ sung và hoàn thiện. Trật tự, kỷ cương trên thị trường được khôi phục đáng kể; hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép bước đầu bị kiềm chế, góp phần bảo vệ sự tăng trưởng của sản xuất, hiệu quả của kinh doanh thương mại và lợi ích của người tiêu dùng.
2. Khó khăn, yếu kém và nguyên nhân chủ yếu
a. Khó khăn, yếu kém
- Khả năng cạnh tranh của hàng hoá nói chung còn yếu. Nhiều mặt hàng công nghiệp còn đơn điệu, cũ kỹ về mẫu mã và quy cách, chất lượng thấp và giá thành cao; phần lớn mặt hàng nông sản cũng trong tình trạng tương tự, lại ít hoặc chưa qua chế biến; do đó vị thế phổ biến của hàng hoá là khó cạnh tranh với hàng nước ngoài, trên thị trường nước ngoài và khó tiêu thụ ngay cả ở thị trường trong nước. Vấn đề "đầu ra" cho nông sản hàng hoá thường xuyên là vấn đề quan tâm hàng đầu của nền kinh tế. Tỷ giá cánh kéo giữa hàng nông sản với hàng công nghiệp và dịch vụ trong nhiều năm qua vẫn "xoạc rộng" theo hướng bất lợi cho hàng nông sản, kìm hãm thu nhập và sức mua của cư dân nông thôn. Tình trạng hàng hoá "dư thừa", lưu thông ách tắc, tồn kho ứ đọng lớn, chỉ số giá tiêu dùng không tăng thậm chí còn giảm sút, dấu hiệu thiểu phát và trì trệ xuất hiện đã làm giảm nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế và làm chậm quá trình mở rộng thị trường và lưu thông hàng hoá, nhất là ở nông thôn và miền núi.
- Mô hình tổ chức thị trường và doanh nghiệp còn nhiều lúng túng và bất hợp lý, thương nhân tuy đông nhưng chưa mạnh, năng lực và vị thế của đa số các doanh nghiệp còn yếu. Nhiều doanh nghiệp thương mại vốn liếng đã mỏng nhưng chậm hoặc không tích tụ và tăng trưởng được, mạng lưới cơ sở vật chất - kỹ thuật nhỏ bé và nghèo nàn, công nghệ quản lý và kinh doanh lạc hậu và thiếu các chiến lược phát triển kinh doanh. Ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh chưa thiết lập được các mối liên kết giữa người sản xuất với người lưu thông, giữa thương mại nhà nước trung ương với thương mại nhà nước địa phương, giữa DNNN với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa xuất khẩu với nhập khẩu v.v... do đó vừa nhiều khâu nấc trung gian, vừa cồng kềnh và rồi rắm, vừa rời rạc và cô lập; nhiều hàng hoá chưa xác lập được các kênh lưu thông phù hợp và ổn định. Đa số các doanh nghiệp thương nghiệp thuần tuý không tăng trưởng được, chỉ tồn tại cầm chừng và thậm chí ngày một teo lại.
- Quản lý nhà nước về thương mại và thị trường còn hạn chế trên nhiều mặt, cả nội dung, phương thức lẫn tổ chức và cán bộ. Luật pháp, cơ chế, chính sách và giải pháp về thị trường trong nước còn chồng chéo và thiếu đồng bộ. Kỷ cương khuôn phép buôn bán bị vi phạm, trật tự thị trường chưa có nền nếp; hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng còn khá phổ biến. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho lưu thông hàng hoá, nhất là ở nông thôn còn nghèo nàn, sơ sài và rất lạc hậu.
b. Nguyên nhân
- Nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất và thiếu rõ ràng về quan điểm, mục tiêu và nội dung phát triển thị trường định hướng XHCN, về vị trí, vai trò của thương mại đối với sản xuất và đời sống cũng như trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế có hiệu quả nhập khẩu, thực hiện hội nhập và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước, do đó nên còn lúng túng, thiếu các chương trình và giải pháp phát triển đồng bộ, làm giảm hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành vĩ mô đối với lưu thông hàng hoá và thị trường.
- Sức mua của thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường nông thôn còn yếu và ít được cải thiện. Thu nhập của cư dân, nhất là khu vực nông thôn còn hạn chế, tuy có tăng nhưng rất chậm. Quỹ thanh toán của xã hội nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá thấp, tiêu thụ khó khăn, giá cả sụt, hậu quả là thị trường trở lên "thiểu cầu", kém phát triển. Đến lượt mình, các ngành sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp thiếu các "cầu" lớn và ổn định, cả để tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu, xã hội thiếu các tác động hướng dẫn, kích thích việc hình thành và gia tăng các "cầu" có quy mô lớn, "cầu" về hàng hoá mới, hàng chất lượng cao để qua đó giải phóng năng lực sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá và phát triển thị trường.
- Công tác phân tích, dự báo thị trường để định hướng sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn nhiều yếu kém. Nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển mặt hàng còn chủ quan, chưa từ đánh giá sâu sắc tiềm năng và cơ hội, chưa bám sát nhu cầu thị trường. Việc phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu hàng tiêu dùng chưa gắn với việc quy hoạch phát triển sản xuất nguồn nông sản nguyên liệu trong nước. Thiếu các chính sách và giải pháp hữu hiệu để vận hành tổng thể thị trường và lưu thông hàng hoá, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và của thương nhân nhằm mục tiêu phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
- Tác động dẫn đường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông, phát triển thị trường của các chủ thể thương mại còn nhiều hạn chế. Quá trình liên kết và thâm nhập giữa lưu thông với sản xuất, chế biến còn chậm và yếu. Ở nhiều mặt hàng và địa bàn, vai trò của thương mại nhà nước chưa rõ, hiệu quả kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh kém, mạng lưới còn phân tán, chia tách theo ngành và cấp khá nặng nề; vốn cho kinh doanh vừa thiếu nghiêm trọng lại vừa sử dụng có hiệu quả, phương thức kinh doanh chậm được đổi mới; hầu hết các doanh nghiệp chỉ hoạt động tập trung ở các thành phố, thị xã, chưa tổ chức được mạng lưới và phương thức kinh doanh thích hợp ở thị trường nông thôn, chưa tạo thành đối tác lớn và đối trọng mạnh trong việc tổ chức cung ứng vật tư hàng hoá, tiêu thụ nông sản thực phẩm; chưa thực hiện được chức năng là công cụ của Nhà nước trong việc "cầm chịch" và điều tiết thị trường. Thương mại hợp tác xã chưa được chú trọng thoả đáng, còn lúng túng trong việc lựa chọn định hướng hoạt động và mô hình kinh doanh. Hoạt động thương mại của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp và tăng trưởng chậm.
- Chức trách, nội dung và phương thức quản lý vĩ mô của Nhà nước về thương mại và thị trường còn đang trong quá trình đổi mới và nâng cao. Cơ chế điều hành cũng như tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa phương (đặc biệt là ở cấp huyện) còn nhiều bất hợp lý, chưa tương thích với yêu cầu, phát triển của thị trường và lưu thông hàng hoá. Hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế chưa hoàn chỉnh. Nhiều giải pháp về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật do thiếu nguồn bảo đảm về tài chính nên khó thực thi. Đội ngũ cán bộ chậm được đổi mới và đào tạo lại một cách kịp thời, trình độ và năng lực chưa ngang tầm với nhiệm vụ trong điều kiện mới. Chưa quan tâm tổ chức lại thị trường phù hợp với xu hướng vận động khách quan của kinh tế trong và ngoài nước. Kênh lưu thông chậm được định hình, cấu trúc các hệ thống chủ thể kinh doanh thương mại chậm được đổi mới, mạng lưới các hình thức tổ chức không gian thương mại cùng các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động thương mại chậm được quy hoạch và đầu tư phát triển.
Đánh giá khái quát hơn 10 năm qua, mặc dù trên thị trường đã xuất hiện và đan xen một số yếu tố và bộ phận tiên tiến, những nhìn chung nền thương mại và thị trường nước ta về cơ bản vẫn là nền thương mại và thị trường vừa mới phát triển bước đầu, còn yếu và nghèo, mang nặng tính chất quá độ, tương ứng với một nền kinh tế quá độ từ sản xuất nông nghiệp nhỏ và lạc hậu đi lên sản xuất công nghiệp lớn và hiện đại.
II. ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC ĐẾN NĂM 2010
1. Quan điểm
- Kiên trì và thực hiện nhất quán chủ trương phát triển thương mại nhiều thành phần định hướng XHCN, trong đó doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong xuất, nhập khẩu và bán buôn những mặt hàng trọng yếu để ổn định và chi phối thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đồng thời phát huy mọi khả năng và tính tích cực của các thành phần kinh tế khác trong lưu thông hàng hoá, phục vụ sản xuất và tiêu dùng với phương châm mở rộng và đa dạng hoá loại hình thương nhân và trên nguyên tắc bảo đảm hài hoà giữa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân lao động, giữa hiệu quả kinh tế và xã hội, thực hiện chế độ phân phối và phân phối lại thu nhập theo kết quả lao động và hiệu quả cống hiến.
Ở thị trường nông thôn, doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là thương mại nhà nước, cùng với kinh tế tập thể làm nòng cốt trong việc tổ chức lưu thông hàng hoá, phục vụ sản xuất và đời sống nông dân thông qua việc cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng và tiêu thụ nông sản hàng hoá, liên kết chặt chẽ giữa lưu thông với sản xuất, chế biến và giữa thương mại nhà nước, thương mại HTX với nông dân, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh quá trình thương mại hoá sản phẩm nông nghiệp và thị trường hoá kinh tế nông thôn. Xác định tiêu thụ trong nước và xuất khẩu về nông sản, đặc biệt là nông sản chế biến là cơ sở kinh tế để nâng cao thu nhập, mở rộng sức mua và cải thiện đời sống cư dân nông thôn.
- ổn định và phát triển thị trường trong nước trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển sản xuất và mở rộng thị trường ngoài nước; thương mại vừa liên kết sâu với sản xuất, chế biến công nghiệp ở thành thị, vừa liên kết rộng và phát huy tích cực, vai trò dịch vụ "hai đầu" thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá phát triển ở nông thôn, gắn hoạt động kinh doanh thương mại với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn lưu thông trong nước với tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh doanh thương mại để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Tăng cường quản lý nhà nước đối với thị trường và lưu thông hàng hoá trong nước trên cơ sở nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế khách quan, thông qua việc thể chế hoá và thiết chế hoá nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển, đổi mới cơ chế điều hành vĩ mô, hoàn thiện môi trường kinh tế, khung khổ pháp lý và tạo mọi điều kiện và động lực cho sự phát triển của lưu thông hàng hoá và thị trường đi đôi với tự do kinh tế và tiến bộ xã hội; trong đó doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng trở thành lực lượng vật chất và công cụ hữu hiệu trong việc thực thi các chính sách, cơ chế quản lý của nhà nước về lưu thông hàng hoá và thị trường.
2. Mục tiêu
- Tiếp tục xây dựng thị trường thống nhất, bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt, thị trường ổn định, bảo đảm cân đối cung cầu về những mặt hàng trọng yếu cho sản xuất và đời sống; phấn đấu có nhiều mặt hàng mẫu mã, quy cách đẹp, chất lượng cao, giá cả phù hợp để cạnh tranh và tiêu thụ được ở thị trường trong và ngoài nước. Duy trị nhịp độ phát triển lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội 13 - 14%/năm thời kỳ 2001 - 2005 và 14 - 15%/năm thời kỳ 2006 - 2010; chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 4 - 5%/năm trong cả hai thời kỳ.
Trên cơ sở phát triển ngành nghề, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của trồng trọt và chăn nuôi, đẩy mạnh tiêu thụ đẩy tăng nhanh thu nhập của nông dân, từng bước hạn chế mức độ gia tăng tỷ giá cánh kéo giữa hàng công nghiệp và dịch vụ với hàng nông sản, mở rộng sức mua của thị trường nông thôn. Phấn đấu đưa chỉ tiêu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ bình quân đầu người hàng năm ở khu vực nông thôn tăng nhanh về số tương đối, và đạt trên 3 lần về số tuyệt đối so với hiện nay vào năm 2010.
- Định hình và cấu trúc hợp lý mô hình các kênh lưu thông và các chủ thể thương nhân trên phạm vi cả nước và trong từng địa phương, địa bàn, vùng lãnh thổ, phấn đấu có nhiều doanh nghiệp tích tụ vốn lớn, đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật, hiện đại hoá công nghệ kinh doanh và mạng lưới phân phối - tiêu thụ, cải thiện trình độ văn minh thương mại, tăng cường đầu tư liên doanh liên kết, nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước; thực hiện vai trò nòng cốt và dẫn dắt thị trường của thương mại nhà nước thông qua việc nắm giữ phần lớn thị trường bán buôn và phần lớn tỷ trọng xuất, nhập khẩu đối với những mặt hàng trọng yếu. Mở rộng mạng lưới thương mại của mọi thành phần kinh tế trên cả ba địa bàn, đặc biệt là nông thôn và miền núi; hình thành các kênh lưu thông hợp lý trên cơ sở nhất thể hoá thương mại với sản xuất để hàng hoá đến với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu bằng con đường ngắn nhất, thời gian nhanh nhất và chi phí thấp nhất.
- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành của hệ thống quản lý nhà nước về thương mại. Củng cố kỷ cương, trật tự thị trường; ngăn chặn tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ lưu thông hàng hoá cùng mạng lưới phân phối - tiêu thụ và bộ mặt kinh doanh thương mại được phát triển rộng ở nông thôn, phát triển sâu ở thành thị. Phấn đấu xây dựng nền thương mại và thị trường phát triển giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh và hiện đại; chuẩn bị đầy đủ cơ sở kinh tế - xã hội của thị trường nội địa cho quá trình hội nhập với thị trường quốc tế.
3. Định hình và củng cố các kênh lưu thông hàng hoá
Tiếp tục định hình và củng cố các kênh lưu thông hàng hoá. Trong 10 năm tới, một mặt củng cố và hoàn thiện các kênh lưu thông hiện có để hàng hoá đến các địa chỉ tiêu dùng một cách trôi chảy và thông suốt; mặt khác, hình thành các kênh lưu thông mới, đặc biệt là kênh tiêu thụ hàng nông sản thực phẩm và kênh phân phối vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng để ngày càng có nhiều kênh lưu thông nối liền sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường nông thôn với thị trường thành thị, các khu công nghiệp và với thị trường ngoài nước.
a. Về hàng nông sản thực phẩm: Do sản xuất phân tán trên các địa bàn rộng lớn, quy mô sản xuất nhỏ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, tính chất của sản xuất hàng hoá chưa cao, hàng hoá khó bảo quản, bao gói, vận chuyển nên việc tổ chức các kênh lưu thông hàng nông sản thực phẩm chủ yếu là thông mạng lưới thu mua rộng khắp, đa dạng gắn với sản xuất nông nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho hoạt động dự trữ, phân loại, bảo quản, chế biến, đóng gói và tổ chức vận chuyển với nhiều quy mô và trình độ khác nhau.
- Đối với nhóm nông sản không hoặc ít qua chế biến công nghiệp, hướng tổ chức lại kênh này là mở rộng mạng lưới thu mua, thu gom của các doanh nghiệp thương mại, trước hết là mạng lưới của doanh nghiệp thương mại nhà nước trên cơ sở hợp đồng hai chiều với nông dân và thông qua việc tổ chức, quản lý và sử dụng mạng lươí đại lý rộng lớn và bền vững (chủ yếu là hợp tác xã, cá nhân và hộ kinh doanh) từ đó qua hệ thống phân phối bán buôn của doanh nghiệp thương mại để hàng hoá tiếp tục đến với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, phát triển hệ thống chợ nông thôn với nhiều cấp độ, nhiều loại hình để trở thành tụ điểm tiêu thụ và khởi đầu kênh lưu thông hàng hoá nông sản loại này.
- Đối với nhóm nông sản phải qua chế biến công nghiệp, hướng tổ chức lại kênh này là xây dựng mối liên kết giữa hộ gia đình nông dân, hợp tác xã nông nghiệp với cơ sở sản xuất - chế biến, giữa cơ sở sản xuất - chế biến với doanh nghiệp thương mại, từ đó qua mạng lưới phân phối bán buôn của doanh nghiệp sản xuất - chế biến hoặc của doanh nghiệp thương mại để hàng hoá tiếp tục đi đến tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Những nơi chưa có cơ sở sản xuất - chế biến công nghiệp, kênh lưu thông được tổ chức tương tự như đối với nhóm nông sản không hoặc ít qua chế biến công nghiệp. Về lâu dài, hệ thống các cơ sở sản xuất - chế biến công nghiệp phải trở thành tụ điểm tiêu thụ và khởi đầu kênh lưu thông hàng hoá nông sản loại này.
b. Về vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng: Do sản xuất tương đối tập trung nhưng tiêu dùng phân tán trong phạm vi cả nước, tính chất của sản xuất hàng hoá khá rõ, hàng hoá để dễ bảo quản, bao gói và vận chuyển, ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, công nghệ và kỹ thuật trong sản xuất và lưu thông đã hình thành một quy trình tương đối chặt chẽ và hệ thống nên việc tổ chức các kênh lưu thông chủ yếu lại nằm ở chính ngay kênh phân phối của bản thân chủ thể kinh doanh (doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại). Quy mô và trình độ tổ chức kênh phân phối của chủ thể kinh doanh là cơ sở kinh tế - kỹ thuật của việc hợp lý hoá các kênh lưu thông vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng. Hướng tổ chức lại kênh lưu thông ngành hàng này là:
- Hàng hoá đi thẳng từ các doanh nghiệp sản xuất qua mạng lưới phân phối của chính doanh nghiệp sản xuất hoặc qua hệ thống đại lý do doanh nghiệp sản xuất tổ chức để đến với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Doanh nghiệp sản xuất có thể xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình hoặc qua các doanh nghiệp khác có chức năng xuất khẩu.
- Hàng hoá từ các doanh nghiệp sản xuất và từ nhập khẩu tập trung vào các doanh nghiệp thương mại đầu mối phát luồng thượng nguồn rồi qua hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ của mình hoặc của các doanh nghiệp thương mại khác để đến với tiêu dùng trong nước, hoặc từ doanh nghiệp thương mại đầu mối để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
4. Cấu trúc lại hệ thống thương nhân
a. Doanh nghiệp chuyên doanh xuyên suốt cả nước (theo mặt hàng, nhóm hàng hoặc ngành nghề, lĩnh vực chính yếu)
Xét quan hệ giữa các khâu, các công đoạn trong quy trình công nghệ kinh doanh theo chiều dọc của từng mặt, nhóm hàng thì định hướng cơ bản về cấu trúc lại hệ thống thương nhân là tiếp tục củng cố và xây dựng các thương nhân lớn mạnh, hoạt động trên phạm vi cả nước, thuần tuý trong lĩnh vực lưu thông hoặc vừa sản xuất vừa lưu thông, chuyên doanh theo mặt hàng, nhóm hàng hoặc ngành nghề, lĩnh vực chính yếu, vừa buôn bán trong nước, vừa xuất, nhập khẩu. Tuỳ thuộc vào đặc điểm nghiệp vụ, tính chất thương phẩm của hàng hoá và yêu cầu về công nghệ và kỹ thuật kinh doanh có thể tổ chức theo mô hình Tập đoàn, Tổng công ty, hãng, Công ty "mẹ" và công ty "con" chuyên doanh toàn quốc theo mặt hàng, nhóm hàng chính yếu hoặc phát huy lợi thế so sánh về kinh nghiệm, uy tín, đội ngũ, thương hiệu, bạn hàng và đối tác để chuyên doanh toàn quốc về xuất, nhập khẩu. Vừa lựa chọn, củng cố và hoàn thiện các tổng công ty, công ty lớn hiện nay, vừa hình thành mới để có những doanh nghiệp lớn mạnh, hoạt động trên phạm vi cả nước hoặc chuyên doanh chủ yếu về các mặt hàng hoặc nhóm hàng vật tư, thiết bị và tư liệu khác, một số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng và cũng có thể cả một số mặt hàng nông sản, nhất là những nông sản có thể chế biến công nghiệp, hoạt động trên phạm vi cả nước. Trong hệ thống tổ chức của từng doanh nghiệp có mạng lưới trực thuộc là các đơn vị thành viên (công ty con) nắm giữ các kênh phân phối - tiêu thụ nhánh, bố trí tại các thị trường trọng điểm của vùng, miền hoặc toàn quốc với mạng lưới phân phối - tiêu thụ chân rết (chi nhánh, cửa hàng) tới tận cơ sở của sản xuất và tiêu dùng, gắn liền với hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh kèm theo như hệ thống kho, cảng và các trung tâm thương mại...
Đặc trưng và cũng là ưu thế của mô hình Tập đoàn, Tổng công ty, Hãng, Công ty "mẹ" và công ty "con" này là khả năng nhất thể hoá cao giữa lưu thông với sản xuất (nhất là trong các khâu chế biến, phân phối, tiêu thụ), công nghệ kinh doanh và trình độ quản lý tiên tiến, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, phương thức hoạt động văn minh, khả năng huy động và tích tụ vốn lớn, bảo đảm vị thế hợp tác và cạnh tranh trong nước cũng như quốc tế.
Ưu tiên áp dụng mô hình này trước hết cho những lĩnh vực và nhóm hoặc mặt hàng trọng yếu, có tác động chi phối tới sản xuất và đời sống, có ảnh hưởng quyết định đến các cân đối vĩ mô mà Nhà nước cần nắm giữ chủ yếu thị phần bán buôn và tỷ trọng xuất nhập khẩu, những nhóm hoặc mặt hàng có lợi thế so sánh ở tầm quốc gia, đem lại tích luỹ lớn cho ngân sách, liên quan đến lợi ích của đông đảo nhân dân lao động và phục vụ việc thực hiện các chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế đất nước, bảo đảm cơ sở kinh tế - xã hội cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Doanh nghiệp gắn với cấp độ của thị trường địa bàn, vùng lãnh thổ (thành phố, thị xã, huyện, xã)
Xét các quan hệ hợp tác và liên kết kinh doanh thương mại theo chiều ngang thì định hướng cơ bản về cấu trúc lại hệ thống thương nhân là tiếp tục đổi mới mạng lưới thương nhân tương thích với đặc điểm, điều kiện, nhu cầu và khả năng của thị trường: thành thị, nông thôn và miền núi. Thị trường thành thị (bao gồm các đô thị lớn thuộc Trung ương và các thành phố, thị xã thuộc tỉnh) là thị trường thứ cấp. Tổ chức lại mạng lưới các chủ thể kinh doanh thương mại ở thị trường thành thị có mối quan hệ biện chứng với vị trí, vai trò và chức năng của các đô thị lớn, các thành phố và thị xã trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường và hội nhập với thế giới.
Thị trường các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ là những trung tâm kinh tế thương mại có ý nghĩa vùng, miền và toàn quốc, là đầu mối tập trung các giao dịch buôn bán và xuất nhập khẩu, là trung tâm phát luồng mở đầu các kênh buôn bán vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng, đồng thời là trung tâm hội tụ, kết thúc các kênh buôn bán hàng nông sản thực phẩm, thực hiện vai trò định hướng và điều tiết lưu thông hàng hoá trong nước và xuất khẩu; là trọng điểm thực thi các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô nhằm ổn định thị trường xã hội, tiên phong trong việc nhất thể hoá với sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng cường đầu tư chiều sâu, tập trung chế biến tinh và sâu với quy mô lớn và trình độ cao, đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thương mại cũng như trong tiến trình hội nhập quốc tế, tăng cường áp dụng phương thức kinh doanh tiên tiến và xây dựng bộ mặt thị trường văn minh hiện đại.
Tiếp theo đó, thị trường các thành phố và thị xã thuộc tỉnh là những "vệ tinh" cho thị trường cấp độ cao tại các đô thị lớn, đồng thời lại là hạt nhân trung tâm cho thị trường cấp độ thấp từ huyện đến xã. Chức năng trọng yếu của thị trường này là ngoài việc phục vụ sản xuất và đời sống tại chỗ, phải tổ chức tốt kênh phân phối vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng và tổ chức tốt kênh tiêu thụ nông sản thực phẩm, góp phần đẩy mạnh sản xuất, nâng cao sức mua, cải thiện đời sống nông dân, phát triển thị trường nông thôn. Bên cạnh chức năng tổ chức lưu thông, phải tổ chức tốt hoạt động sản xuất chế biến, đặc biệt là hàng nông, lâm, thủy sản với phương châm đa dạng và đại trà, quy mô vừa phải, trình độ tinh và sâu tương đối, nhưng khối lượng lớn, mặt hàng nhiều và bố trí rộng khắp sao cho chất lượng, giá cả có thể chấp nhận được ở thị trường trong nước và nếu qua chế biến tập trung hiện đại ở thị trường các đô thị lớn thì có thể xuất khẩu được ra thị trường ngoài nước.
Cấu trúc tổng thể các thương nhân trên địa bàn thị trường này gồm có các cơ quan đầu não và các đơn vị thành viên của mô hình Tập đoàn, Tổng công ty, Hãng, Công ty "mẹ" và công ty "con" hoạt động xuyên suốt cả nước, chuyên doanh theo mặt hàng, nhóm hàng hoặc chuyên doanh theo ngành nghề, lĩnh vực xuất nhập khẩu (như trên), các doanh nghiệp mà chức năng sản xuất chế biến là chủ yếu, các doanh nghiệp thương mại thuộc mọi thành phần kinh tế; Liên hiệp HTXTM và các thành viên; đội ngũ thương nhân nhỏ (tiểu thương, tiểu chủ, hộ kinh doanh cá thể) và các loại hình tổ chức kinh doanh thương mại hoặc phục vụ kinh doanh thương mại đặc thù cùng các kết cấu hạ tầng thương mại, trong đó quan trọng nhất là chợ lớn, siêu thị, sở giao dịch hàng hoá, nhà máy sản xuất, xí nghiệp chế biến, tổng kho, trung tâm xúc tiến, quảng cáo và môi giới. v.v... Riêng hệ thống doanh nghiệp nhà nước về thương mại được tổ chức lại theo hướng: tại các đô thị lớn, trọng điểm và điển hình cho thị trường của cả một vùng, một miền như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Năng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ sẽ hình thành một tổng công ty kinh doanh thương mại tổng hợp gắn với mạng lưới bán lẻ, trung tâm thương mại và siêu thị lớn; còn tại các thành phố và thị xã còn lại sẽ hình thành một công ty thương mại tổng hợp và một vài công ty chuyên doanh về vật tư nông nghiệp và nông sản thực phẩm, vừa xuất nhập khẩu vừa lưu thông nội địa, liên kết với sản xuất (đặc biệt là sản xuất - chế biến công nghiệp) vừa buôn bán vừa sản xuất - chế biến vừa phục vụ thị trường tại chỗ (thông qua các mạng lưới bán lẻ như siêu thị, cửa hàng chuyên doanh, hệ thống đại lý, chợ,...) vừa thực hiện chức năng trung tâm thu hút và phát luồng, đầu mối hội tụ và lan toả đối với thị trường vùng, miền và cả nước (thông qua mạng lưới công ty, chi nhánh, cửa hàng, điểm mua bán đến tận thị trấn, thị tứ)
Thị trường nông thôn (từ huyện xuống đến xã) có vị trí và vai trò của thị trường cơ sở đối với sản xuất và tiêu dùng. Về dung lượng: thị trường này chứa đựng địa bộ phận sức mua hàng vật tư nông nghiệp và hàng công nghiệp tiêu dùng cũng như đại bộ phận nguồn cung về nông sản thực phẩm cho thị trường thành thị, cho sản xuất - chế biến công nghiệp và cho xuất khẩu; về tổ chức kinh doanh: thị trường này là địa bàn hoạt động của mạng lưới thương nhân rộng lớn nhất, đông đảo nhất và đang dạng nhất. Tổ chức lại lưu thông hàng hoá nhằm thúc đẩy thị trường nông thôn phát triển được thể hiện tập trung ở quá trình tạo ra một tổ hợp các thương nhân với nhiều người bán và nhiều người mua, quy mô nhỏ nhưng năng động, thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó sở hữu tư nhân và tập thể là phổ biến, kiêm cả sản xuất chế biến nhưng sơ chế, tạm trữ và dự trữ nhỏ là chủ yếu, lấy chợ làm không gian kinh tế đặc thù, dần dần hình thành các mô hình thương mại điển hình cho thị trường nông thôn như mô hình thương mại thị trấn, thị tứ (được trình bày cụ thể ở PHẦN THỨ HAI dưới đây) với chức năng chính là mở đầu kênh tiêu thị nông sản và kết thúc kênh cung ứng vật tư và hàng tiêu dùng.
(Xem phụ lục 1: Sơ đồ trực quan về cấu trúc tổng thể hệ thống doanh nghiệp thương mại)
Phần thứ hai:
TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN ĐẾN 2010, NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM ĐẾN NĂM 2005
I. THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN TRONG 10 NĂM TỚI
1. Thực trạng
Trong 10 năm qua, thị trường nông thôn (thị trấn, thị tứ, cụm xã, xã) đã thể hiện được từng bước vai trò và vị trí quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên hai phương diện: cung ứng lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước, cho xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến; tiêu thụ vật tư và hàng công nghiệp của sản xuất trong nước và của nhập khẩu.
Kinh tế nông thôn nước ta những năm qua đã có những tiến bộ vượt bậc. Từ chỗ hàng năm phải nhập khẩu một khối lượng lớn lương thực và nhiều hàng nông sản khác đến nay chẳng những đã cung cấp đủ đại bộ phận các mặt hàng cho nhu cầu trong nước, hàng chính sách cho đồng bào miền núi mà còn tạo ra một nguồn hàng xuất khẩu ngày càng nhiều, trong đó có một số mặt hàng xuất khẩu với quy mô lớn, giữ vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm, thuỷ, hải sản hiện tại chiếm trên dưới 30% tổng kim ngạch xuất khẩu và với trên 3/4 dân số cả nước, thị trường nông thôn đang tiêu thụ khoảng 50% hàng hoá và dịch vụ do xã hội làm ra.
Tuy nhiên, hiện tại thị trường nông thôn vẫn là thị trường phát triển vừa chậm vừa yếu, giải quyết đầu ra cho nông dân vẫn là vấn đề bức xúc, sức mua ở thị trường nông thôn còn chênh lệch lớn giữa các vùng và chậm được cải thiện, vai trò của thương mại nhà nước và HTX còn mờ nhạt; tệ nạn kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, thậm chí cả hàng cấm sử dụng và hành vi gian lận thương mại còn phổ biến; việc chấp hành pháp luật về đăng ký kinh doanh, về thuế, về sổ sách kế toán - thống kê, báo cáo tài chính, về nhãn mác hàng hoá và về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường còn khá lỏng lẻo và tuỳ tiện... Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém là do:
- Cư dân nông thôn vẫn còn chiếm tỷ trọng rất lớn (76,5% dân số cả nước), trong đó chủ yếu vẫn là nông dân (80%) trong khi đất nông nghiệp bình quân đầu người rất thấp, lại chưa được khai thác hợp lý; kỹ thuật, công nghệ và năng suất trồng trọt cũng như chăn nuôi mới ở mức thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, chế biến kém, chi phí cao, sức cạnh tranh yếu, quy cách chủng loại đơn điệu và nghèo nàn, nhiều hàng hoá không có hoặc không phù hợp với một "cầu" đủ lớn và ổn định nên càng khó tiêu thụ. Do vậy, thị trường tuy rộng, cư dân tuy đông, khả năng thanh toán không lớn, sức mua hạn hẹp và tác động trở lại là làm cho "cầu" về vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng cũng theo đó mà chậm gia tăng.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, kinh tế nông thôn vẫn nặng nề về nông nghiệp (khoảng 70%), trong đó nhà nước lại vẫn nặng nề về trồng trọt (khoảng 80%), công nghiệp và dịch vụ phát triển rất yếu, thiếu việc làm gay gắt, nhiều hàng hoá và nhiều lĩnh vực thiếu các tiền đề kinh tế nảy sinh cả cung lẫn cầu. Sản lượng nhiều mặt hàng tính bình quân đầu người của cả nước ta đều thấp so với khu vực và thế giới nhưng đã khó xuất khẩu và nếu có xuất khẩu được thì cũng rẻ, giá trị trao đổi thường thua thiệt so với các nước. Sản xuất nông nghiệp chưa lớn, kinh tế hàng hoá chưa mạnh nhưng tiêu thụ và nhu cầu của thị trường đã và đang trở thành vấn đề bức xúc, chìa khoá cho sự phát triển của thị trường nông thôn.
- Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu, đường giao thông nông thôn nhìn chung là xấu, nhất là địa bàn miền núi nên việc giao lưu hàng hoá giữa các vùng bị hạn chế, cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại còn rất yếu kém.
- Mạng lưới kinh doanh của thương mại nhà nước ở thị trường nông thôn mỏng, nguồn lực yếu, số đông vẫn tổ chức kinh doanh theo kiểu chuyên doanh cứng nhắc, trực thuộc nhiều khâu nấc của các ngành, các cấp khác nhau, không đủ khả năng bám sát sản xuất cũng như tiêu dùng, phương thức hoạt động đơn điệu và thụ động, địa bàn và thị phần co dần, hiệu quả kinh tế thấp. Trong các dòng vận động của các loại vật tư là đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, thương mại nhà nước mới chỉ có mặt ở khâu tập trung hàng hoá đầu nguồn và bán buôn phát luồng. Trong các dòng vận động của nông sản, thương mại nhà nước cũng chỉ có mặt chủ yếu ở khâu tập trung hàng hoá cuối nguồn và xuất khẩu còn phần lớn các hoạt động mua bán trực tiếp với nông dân ở thị trường nông thôn đều do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đảm nhiệm.
- Thương mại HTX ở địa bàn nông thôn còn ít và yếu, chủ yếu mới đảm nhiệm một số dịch vụ kỹ thuật và cung ứng một phần vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp. Số HTX tham gia tiêu thụ nông, lâm, thuỷ hải sản còn rất ít do cơ sở vật chất nghèo nàn, phương thức giao dịch và kinh doanh chưa phù hợp, thiếu cả con người lẫn kinh nghiệm và đặc biệt là không đủ vật lực, tài lực để liên kết, hợp đồng đại lý với nông dân.
- Lực lượng chủ yếu tham gia hoạt động ở thị trường nông thôn là thương mại tư nhân với nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến và đông đảo nhất là cá nhân và hộ buôn bán nhỏ. Bên cạnh những mặt tích cực, thương mại tư nhân cũng phát sinh không ít tiêu cực gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu dùng do thiếu các quan hệ mua bán lớn, ổn định, lâu dài trên cơ sở liên kết, định hướng phát triển sản xuất và chia sẽ lợi ích hài hoà, hợp lý với nông dân.
- Hoạt động quản lý nhà nước trên thị trường nông thôn còn nhiều bất cấp, cơ chế và chính sách mở rộng lưu thông hàng hoá và kích thích thương nhân phát triển sản xuất kinh doanh chưa đủ cả về lượng và chất. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách không đồng bộ và thường xuyên. Trình độ và năng lực cán bộ chưa ngang tầm với nhiệm vụ trong điều kiện mới. Công tác phân tích, dự báo thị trường để định hướng sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn nhiều yếu kém. Các quy hoạch, kế hoạch phát triển các mặt hàng nông sản chủ lực còn mang nặng yếu tố chủ quan, chưa bám sát nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng. Công nghiệp chế biến và xuất khẩu chưa gắn với việc quy hoạch phát triển sản xuất nguồn nông sản nguyên liệu trong nước.
Do tác động của những nhân tố trên nên hiệu quả kinh tế và thu nhập của cư dân khu vực nông thôn tăng rất chậm (6,1%/năm so với 16,4%/năm của khu vực đô thị trong thời kỳ 1996 - 2000), khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực đô thị so với khu vực nông thôn tăng nhanh (năm 2000 đã lên tới khoảng 4,1 lần so với 2,7 lần năm 1996). Nông dân vốn có thu nhập thấp, lại chiếm 3/4 dân số cả nước nên sự giảm sút sức mua của thị trường nông thôn là nguyên nhân chủ yếu làm cho sức mua của thị trường cả nước yếu đi. Nhịp độ tăng trưởng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong nước có xu hướng giảm dần trong 10 năm qua, từ bình quân 44,8%/năm trong 5 năm 1991 - 1995 xuống còn 12,6%/năm trong 5 năm 1996 - 2000.
2. Cơ hội và thách thức
Trong 10 năm tới, hoạt động thương mại ở thị trường nông thôn sẽ diễn ra trong bối cảnh có nhiều cơ hội và thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức và khó khăn:
- Nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập ngày càng sâu vào kinh tế khu vực và thế giới. Cơ chế bảo hộ sản xuất trong nước, bảo hộ mậu dịch sẽ giảm mạnh. Mở cửa, hội nhập nhất là sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết và thông qua, một mặt tạo ra cơ hội phát triển xuất khẩu ra thị trường quốc tế, mặt khác đặt nền thương mại trong nước trước những thách thức to lớn của hàng hoá và thương nhân nước ngoài. Trong điều kiện ấy, thách thức và khó khăn đối với hàng nông sản và thương nhân hoạt động trên thị trường nông thôn lại càng gay gắt và sâu sắc hơn.
- Trong kinh tế nông thôn, các hình thức sở hữu xâm nhập và đan kết với nhau hình thành nên các mô hình kinh tế đa dạng. Các tổ chức sản xuất kinh doanh vừa tự chủ và liên kết, vừa hợp tác và cạnh tranh. Đô thị hoá, công nghiệp hoá nông thôn sẽ thúc đẩy nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển. Các doanh nghiệp chuyên doanh lớn, vừa sản xuất vừa lưu thông những nhóm hoặc tổ hợp mặt hàng nông sản - vật tư và công nghiệp tiêu dùng, với nhiều doanh nghiệp vệ tinh sẽ tiếp tục ra đời và củng cố. Sự giao thoa và chống lấn với nhau giữa các lĩnh vực sẽ ngày càng sâu rộng. Kinh tế trang trại sẽ phát triển mạnh, vai trò và vị trí của kinh tế hộ gia đình nông dân sẽ phát huy cao. Trong điều kiện ấy, hệ thống thương nhân ở thị trường nông thôn phải được cải biến cơ bản về mọi mặt, nhất là về tổ chức và phương thức hoạt động.
- Sự cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như ngoài nước sẽ ngày càng quyết liệt. Dự báo đúng nhu cầu thị trường, giá cả hàng hoá hợp lý, chất lượng bảo đảm, cơ cấu mặt hàng phong phú, mẫu mã mới và đẹp, giao dịch văn minh, thuận tiện là những yếu tố cơ bản tạo nên thắng lợi trong cạnh tranh. Trong điều kiện ấy, tìm được thị trường, tìm được đối tác, tìm và kích được cầu tiêu thụ nông sản là những điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường nông thôn.
- Với tổng dân số khoảng 83 triệu người vào năm 2005 và khoảng 88- 89 triệu người vào năm 2010, tuy tỷ trọng cư dân nông thôn có giảm xuống (72% năm 2005 và 67 - 68% năm 2010), nhưng với gần 60 triệu người thì thị trường nông thôn vẫn là một thị trường rộng lớn. Về phía đầu vào, nông thôn vẫn là thị trường tiêu thụ chủ yếu về vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng. Về phía đầu ra, với nhịp độ tăng trưởng bình quân 4,5%/năm của giá trị sản lượng nông nghiệp và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của toàn bộ nền kinh tế 16 - 17%, đến năm 2010 tổng giá trị khối lượng hàng nông sản do khu vực thị trường này có thể cung ứng và cần được tiêu thụ ước khoảng 130 - 140 nghìn tỷ đồng. Như vậy trong 10 năm tới, tập trung phát triển mạnh được thị trường nông thôn thì về cơ bản sẽ thúc đẩy được thị trường cả nước đi lên một cách vững chắc với một mặt bằng mới và một trình độ mới.
3. Chủ trương phát triển thị trường nông thôn thời kỳ đến 2010
Để khắc phục tình trạng trì trệ của thị trường nông thôn dẫn tới sự suy yếu của thị trường nói chung và để thích ứng với tình hình và xu thế mới của thị trường trong và ngoài nước, bám sát những quan điểm và mục tiêu chung về phát triển thị trường cả nước thời kỳ 2001 - 2010, định hướng phát triển thị trường nông thôn là:
1- Phát triển thị trường nông thôn trên cơ sở phát triển nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá và tác động trở lại thúc đẩy nền hàng hoá phát triển trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng tiểu vùng theo hướng phát triển chuyên canh nông sản hàng hoá nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến nông sản ngay trên địa bàn nông thôn để tạo ra những mặt hàng có chất lượng tốt, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, có sức cạnh tranh cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước.
Đồng thời với việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản, khuyến khích đẩy mạnh phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp khác, cũng như các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong nông thôn nhằm tạo nhiều việc làm, tận dụng nguồn lao động, tăng nhanh thu nhập cho cư dân, góp phần hạn chế sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.
2- Phát triển thị trường nông thôn trong mối quan hệ với phát triển lưu thông hàng hoá và thị trường cả nước, đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt là mở rộng tiêu thụ và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, nâng cao sức mua và cải thiện đời sống nông dân. Xác định tiêu thụ trong nước và xuất khẩu nông sản là cơ sở kinh tế, là tiền đề vật chất để nâng cao thu nhập, tăng thêm sức mua và cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Thị trường nông thôn phải được tổ chức theo hướng gắn kết với thị trường thành thị, tạo thành một hệ thống hoạt động thông suốt, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau; nâng cao hiệu quả của lưu thông hàng hoá, gắn sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến với thị trường tiêu thụ.
3- Thị trường nông thôn phải trở thành một thị trường cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thương mại nhà nước cùng với thương mại HTX trở thành đối tác và đối trọng chính trong việc tổ chức cung ứng những mặt hàng đầu vào thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nông dân, tiêu thụ những mặt hàng đầu ra chủ lực để định hướng, điều tiết và kích thích phát triển thị trường, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng của nông dân.
4- Phát triển sự liên doanh, liên kết sâu rộng giữa thương mại với sản xuất và chế biến nông sản theo nhiều phương thức: hợp đồng cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra, tham gia cùng đầu tư liên doanh sản xuất, chế biến nông sản với nông dân hoặc ngược lại, huy động nông dân tham gia đầu tư vào chế biến và lưu thông, kêu gọi góp vốn và trở thành cổ đông của doanh nghiệp v.v... để đổi mới và phát triển các kênh lưu thông hàng hoá, đặc biệt là kênh tiêu thụ nông sản. Phấn đấu giải phóng đại bộ phận nông sản hàng hoá, trước hết là nông sản chủ lực và ở những vùng sản xuất trọng điểm cho nông dân.
5- Phát triển thị trường nông thôn đồng thời với phát huy vai trò quản lý của nhà nước, bảo đảm công bằng, dân chủ, văn minh, trật tự, kỷ cương, giữ gìn môi trường, môi sinh bền vững. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý cùng hệ thống chính sách và cơ chế quản lý. Trong công tác quy hoạch, kế hoạch cần chủ động lồng ghép các đề án, dự án thành các chương trình đồng bộ có mục tiêu theo hướng thiết thực, mạnh mẽ hơn đối với kinh tế nông thôn và thị trường nông thôn. Tăng cường quản lý nhà nước đối với thị trường và lưu thông hàng hoá ở nông thôn, khắc phục tình trạng kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng kém chất lượng; duy trì kỷ cương pháp luật, bảo đảm an toàn, vệ sinh hàng hoá và giữ gìn môi trường, môi sinh nông thôn, tạo lập "sân chơi" lành mạnh, bảo đảm quyền lợi chính đáng của thương nhân trong hoạt động kinh doanh cũng như quyền lợi chính đáng của nông dân trong mua bán và tiêu dùng.
6- Phát triển thị trường nông thôn miền núi phải gắn liền với việc định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo và giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn (đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc).
II. MÔ HÌNH TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN
Với một không gian rộng lớn, thị trường nông thôn là địa bàn hoạt động của mạng lưới thương nhân đông đảo và đa dạng về loại hình tổ chức và về thành phần kinh tế, trong đó thương nhân quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, thực hiện chức năng chủ yếu là trực tiếp thu gom, sơ chế nông sản, bán lẻ vật tư và hàng tiêu dùng thiết yếu, tạo thành mạng lưới rộng khắp nối liền nông nghiệp với công nghiệp, nông thôn với thành thị, thị trường từng vùng với khu vực và cả nước, góp phần thúc đẩy về cơ bản và từ cơ sở của mối quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Cấu trúc mạng lưới thương nhân tại địa bàn này bao gồm:
- Mạng lưới các doanh nghiệp sản xuất - chế biến và lưu thông thuộc mọi thành phần kinh tế (cùng hệ thống trực thuộc là các chi nhánh, cửa hàng, điểm mua bán; các cơ sở sơ chế, phân loại, bao gói, bảo quản và dự trữ nhỏ; các xí nghiệp, trạm trại sản xuất và hệ thống bến bãi, kho cơ sở và kho trung chuyển đặt tại các thị trấn, thị tứ) đóng vai trò là những chủ thể nòng cốt trong việc thu gom tập trung nông sản để cung ứng (bán buôn) cho (công nghiệp chế biến, thị trường thành thị, thị trường xuất khẩu) và phát tán vật tư nông nghiệp, hàng tiêu dùng thiết yếu để phân phối (bán lẻ) tới các hộ nông dân.
- Mạng lưới hợp tác xã các loại với quy mô vừa và nhỏ (HTX dịch vụ tổng hợp, HTX nông nghiệp - thương mại - dịch vụ, hợp tác xã thương mại - dịch vụ, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp... ở các xã, cụm xã và hợp tác xã quy mô lớn ở các thị trấn) hoạt động trên lĩnh vực "đầu ra", "đầu vào" và dịch vụ kỹ thuật cho kính tế hộ, kinh tế trang trại và sinh hoạt của cư dân nông thôn. Hoạt động của các hợp tác xã liên kết chặt chẽ và được sự hỗ trợ của thương mại nhà nước thông qua cơ chế "bảo đảm" về nguồn hàng vật tư nông nghiệp và thị trường tiêu thụ nông sản thể hiện trong các hợp đồng mua - bán, trong phương thức đại lý và các phương thức thanh toán...
- Mạng lưới chợ nông thôn với trung tâm là chợ thị trấn và vệ tinh xung quanh là các chợ thị tứ làm nòng cốt, bên cạnh đó là các chợ trung tâm bán buôn phát luồng nông sản và tổng phát hành vật tư nông nghiệp, các chợ đầu mối, chợ đấu giá ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng nông sản tập trung chuyên canh hoặc các vùng nông thôn ven đô, ngoài ra còn có các chợ đặc thù như chợ chuyên doanh một mặt hàng nông sản, chợ đêm, chợ trên sông, chợ cửa khẩu, chợ biên giới v.v... Phù hợp với tính chất và trình độ kinh tế nước ta, chợ hiện đang và sẽ còn trở thành những loại hình tổ chức kinh doanh thương mại điển hình, phổ biến và chủ yếu ở thị trường nông thôn.
- Mạng lưới cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, kể cá hộ nông dân vừa sản xuất vừa kinh doanh thương mại có mặt ở khắp các thôn xã, kinh doanh độc lập hoặc liên kết với các doanh nghiệp, các hợp tác xã thông qua phương thức đại lý thu mua, đại lý tiêu thụ; đóng vai trò "chân rết cơ sở", khởi đầu trực tiếp các kênh tiêu thụ hàng nông sản, thực phẩm, kết thúc trực tiếp các kênh lưu thông vật tư hàng công nghiệp tiêu dùng; thực hiện các loại hình hoạt động dịch vụ đa dạng, nhỏ lẻ và chi tiết phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn.
Trong quá trình hoạt động, mạng lưới kinh doanh và các hệ thống thương nhân trên thị trường nông thôn được định hướng và taọ mọi điều kiện cũng như môi trường thuận lợi để bố trí, quy tụ tại các cụm xã, thị tứ và phát triển dần thành các cụm thương mại -dịch vụ, những "vệ tinh" hoạt động trong mối quan hệ tương tác và chi phối của trung tâm thương mại -dịch vụ tại các thị trấn với quy mô và trình độ cao hơn. Thực hiện từng bước chương trình quy hoạch nhằm phát triển đầy đủ, nhanh chóng, đồng bộ và hợp lý tất cả các bộ phận và yếu tố thuộc cấu trúc trên, trong đó lâý chợ làm tâm điểm, xoay quanh chợ là công ty, chi nhánh, cửa hàng, điểm mua bán, kho, cơ sở sản xuất, chế biến, hợp tác xã, đơn vị đại lý... tạo thành hai mô hình tổ hợp thương mại nông thôn ở hai cấp độ: Trung tâm thương mại - dịch vụ thị trấn và Cụm thương mại- dịch vụ thị tứ, để qua đó thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ và trực tiếp giữa thương mại với sản xuất nông nghiệp, giữa thương nhân với hộ gia đình nông dân, giải quyết một cách cơ bản nhu cầu chế biến và tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng và dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, mở rộng và phát triển thị trường nông thôn.
Nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước, trong đó có doanh nghiệp thương mại nhà nước trên thị trường nông thôn, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đặt tại các thành phố, thị xã sẽ từng bước chuyển hướng tổ chức và hoạt động từ chỗ co cụm ở thành phố, thị xã, lấy kinh doanh hàng bách hoá, ăn uống, giải khát, dịch vụ vui chơi, giải trí nhằm tạo công ăn việc làm, bảo đảm cho sự tồn tại sang kinh doanh tổng hợp, trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn bằng các hoạt động cung ứng những vật tư thiết yếu, đồng thời tiêu thụ những nông sản chủ lực trên cơ sở hợp đồng mua bán hai chiều hoặc hợp đồng đầu tư sản xuất và bao tiêu nông sản, hợp đồng ứng trước vật tư hàng hoá và mua sau nông sản với hộ nông dân, hợp tác xã thông qua hệ thống trực thuộc của mình là các chi nhánh, cửa hàng, trạm trại, xí nghiệp, điểm cung ứng và thu mua toả rộng tại các thị trấn, thị tứ; vừa đóng vai trò đối tác trực tiếp với hộ nông dân, hợp tác xã, vừa cùng liên kết, đều phối và đóng vai trò đối trọng với các chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác để thị trường nông thôn phát triển trong ổn định, lành mạnh và bền vững.
Riêng đối với địa bàn nông thôn ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa và hải đảo tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể, duy trì và củng cố doanh nghiệp thương mại nhà nước phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào với mô hình là công ty hoặc chi nhánh, cửa hàng đặt ở thị trấn, có điểm mua bán đặt tại các thị tứ, cụm xã hoạt động kinh doanh tổng hợp, thực hiện việc mua, bán các mặt hàng chính sách có trợ cước, trợ giá và kinh doanh các mặt hàng khác theo cơ chế thị trường; trong đó các cửa hàng, điểm mua bán ở vùng sâu, vùng xa chủ yếu là để bán vật tư và hàng tiêu dùng kết hợp với việc mua nông sản có trợ cước, trợ giá. Các hoạt động mua bán nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội được tổ chức và bảo đảm từ sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước thông qua kế hoạch và chỉ tiêu cụ thể.
Phấn đấu đổi mới phương thức và tăng dần tỷ trọng kinh doanh những mặt hàng ngoài diện chính sách xã hội theo cơ chế thị trường khi các chính sách hỗ trợ trực tiếp của nhà nước chuyển dần thành các chính sách kinh tế nhằm khuyến khích và hỗ trợ gián tiếp thông qua các ưu đãi về đầu tư, tài chính - tín dụng, kỹ thuật - công nghệ, thông tin và thị trường... để từng bước đẩy mạnh sản xuất, mở rộng lưu thông, nâng cao sức mua, phát triển thị trường và cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc.
Cùng với thương mại nhà nước kinh doanh tổng hợp nói trên, tiếp tục tồn tại ở huyện và cụm xã các chi nhánh, cửa hàng chuyên doanh thuộc các doanh nghiệp nhà nước khác để cung ứng các loại hàng hoá như xăng dầu, phân bón, xi măng, than, sắt thép và tiêu thụ sản phẩm cho bà con. Mở rộng mạng lưới bán lẻ trực tiếp của doanh nghiệp hoặc mạng lưới đại lý do doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tổ chức để "nối dài cánh tay" của doanh nghiệp từ trung tâm huyện, trung tâm cụm xã len lỏi tới tận các làng bản.
Bên cạnh hệ thống tổ chức kinh doanh của nhà nước đóng vai trò chủ lực và nòng cốt thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển và bảo đảm đời sống nhân dân, đặc biệt chú trọng phát triển chợ phiên như là kết cấu hạ tầng thương mại cơ bản, điển hình và đặc thù đối với giao lưu hàng hoá, mở rộng quan hệ thị trường và phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi; củng cố và phát triển các loại hình hợp tác xã hoạt động kinh doanh tổng hợp, gắn vai trò và phương thức hoạt động của hợp tác xã với việc mua bán các mặt hàng chính sách ở những vùng có khó khăn và tạo điều kiện cho sự phát triển mô hình trang trại, kinh tế chăn nuôi đại gia súc, kinh tế vườn rừng của hộ gia đình ở những vùng có điều kiện.
(Xem phụ lục 2: sơ đồ trực quan về mô hình tổ chức thương mại ở thị trấn thị tứ)
III. MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NÔNG THÔN ĐẾN NĂM 2005.
1. Mục tiêu
- Gắn kết quả sản xuất - chế biến với thị trường tiêu thụ, áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển thị trường tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản trong nước trên cơ sở tạo điều kiện tăng thu nhập của nhân dân và thực hiện cơ chế lưu thông thông thoáng, phương thức lưu thông thích hợp, mạng lưới lưu thông rộng rãi, bảo đảm tiêu thụ phần lớn hàng hoá do nông dân sản xuất ra.
- Tổ chức lại hệ thống thương mại từ huyện đến xã, hoàn thành việc xây dựng các trung tâm thương mại thị trấn, cụm thương mại thị tứ tại các huyện trọng điểm với sự đa dạng của loại hình kinh doanh và loại hình thương nhân trong đó chủ yếu là thương mại hợp tác xã và thương mại tư nhân.
- Đẩy mạnh việc xây dựng các chợ và cửa hàng tại các trung tâm cụm xã; phấn đấu các xã đều có chợ để phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân; hình thành và phát triển các chợ trung tâm huyện, các chợ đầu mối bán buôn ở các vùng kinh tế trọng điểm, sản xuất hàng hoá tập trung; củng cố và xây dựng các chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, để tăng cường các hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá với các nước láng giềng.
- Hoàn thành cơ bản việc củng cố, sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước hoạt động thương mại trên địa bàn nông thôn, chủ yếu kinh doanh trên các lĩnh vực, địa bàn mà các thành phần khác không đủ sức hoặc không muốn đầu tư hoặc hoạt động để dẫn dắt và hỗ trợ thương nhân thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Tăng cường liên kết kinh tế giữa thương mại nhà nước với thương mại hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác, thực hiện ngày càng tốt hơn dịch vụ đầu vào, đầu ra; đẩy mạnh tiêu thụ và cung ứng hàng hoá phục vụ sản xuất, đời sống cho nông dân, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sản xuất và người tiêu dùng.
2. Giải pháp chủ yếu
2.1.Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất - chế biến nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng nông sản
a. Căn cứ vào tiềm năng, vào nhu cầu thị trường, lợi thế so sánh và vị thế cạnh tranh của hàng hoá ở từng vùng, tiểu vùng để các Bộ, ngành, các doanh nghiệp cùng các tỉnh, thành phố xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng chuyên canh kết hợp với đổi mới cơ cấu nông sản hàng hoá, chú trọng quy hoạch sản xuất các mặt hàng nông sản nguyên liệu cho chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời phát triển công nghiệp chế biến và xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu.
Việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phải dựa trên cơ sở tính toán cân đối cung - cầu một cách khoa học, chi tiết thông qua dự báo đầy đủ mọi khía cạnh của thị trường trong và ngoài nước từ đó đối chiêú, so sánh với điều kiện thực tế của từng vùng, tiểu vùng để xác lập các phương án sản xuất, kinh doanh khả thi.
b. Đưa công nghiệp về nông thôn và phát triển công nghiệp chế biến nông sản, từng bước xây dựng các tổ hợp nông - công nghiệp gắn sản xuất với chế biến nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, hình thành các mô hình thương mại - dịch vụ nông thôn, gắn sản xuất, chế biến với lưu thông để hàng hoá và dịch vụ nối liền nông thôn với thị trường tiêu thụ.
Có chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản như miễn hoặc giảm tiền thuê đất, có cơ chế tín dụng ưu đãi đầu tư vào công nghiệp chế biến nông sản ở nông thôn, có chương trình hỗ trợ để phát triển các vùng nông sản nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, như hỗ trợ về giống, thức ăn, phân bón, kỹ thuật sản xuất, phòng chống dịch bệnh, dự trữ bảo quản... cho hợp tác xã kinh tế trang trại và hộ gia đình nông dân.
c. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết cho các tổ hợp nông - công nghiệp ở khu vực nông thôn thông qua đầu tư của ngân sách nhà nước kết hợp với huy động sự đóng góp của dân cư nông thôn, của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân khác; trước mắt ưu tiên tập trung đầu tư vào các hạng mục công trình cơ bản như đường, điện, kho, cảng sông... nhất là đường giao thông, hệ thống kho tàng, hệ thống thông tin liên lạc và mạng lưới chợ cho các địa bàn vừa có nhu cầu vừa có khả năng đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản, các địa bàn đã và đang hình thành các tổ hợp nông - công nghiệp sản xuất - chế biến nông sản.
d. Tăng cường đầu tư cho các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hướng dẫn sử dụng giống mới, kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới, phương thức sản xuất tiên tiến, quản lý việc sản xuất và cung ứng phân bón, thức ăn, thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật... để một mặt, công nghiệp hoá quá trình trồng trọt cũng như chăn nuôi, mặt khác, công nghiệp hoá khâu chế biến các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi; kết hợp nâng cao chất lượng với "mới hoá" mặt hàng, từng bước phát triển một nền nông nghiệp sạch với những hàng hoá nông sản sạch.
2.2. Xử lý thoả đáng mối quan hệ giữa thị trường nông sản trong nước và thị trường nông sản ngoài nước.
- Xác định đúng lợi thế so sánh cũng như năng lực cạnh tranh của các mặt hàng cụ thể, của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cụ thể và trên các lĩnh vực cụ thể, từ đó lựa chọn và quyết định phương án phát triển: vừa đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia vững chắc vào tiến trình hội nhập, vừa thay thế nhập khẩu và bảo hộ sản xuất, lưu thông nông sản hàng hoá trong nước một cách có lợi nhất cho cả nhà nước, doanh nghiệp và nông dân.
- Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực hiện có, đồng thời khẩn trương triển khai các chương trình, dự án phát triển sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng nông sản tiềm năng, các mặt hàng nông sản phổ biến ở khắp mọi miền nông thôn cả nước. Thay thế nhập khẩu những mặt hàng nông sản mà sản xuất trong nước dồi dào về nguồn lực và đủ sức cạnh tranh. Bảo hộ sản xuất kinh doanh một cách hợp lý, có thời hạn và có chọn lọc những hàng hoá nông sản và ngành nghề quan hệ mật thiết tới lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích chủ yếu của đồng đảo nông dân. Kết hợp việc nghiên cứu xây dựng các chủ trương, giải pháp cụ thể để xử lý các mối quan hệ lớn trên đây với việc tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn tiêu dùng để đổi mới, gia tăng và kích cầu về hàng nông sản.
- Xác định lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết trong các hiệp định song phương và đa phương về quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu và quyền phân phối của thương nhân nước ngoài về hàng nông sản và trên thị trường nông thôn. Khẩn trương soạn thảo để trình Quốc hội ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền , trong đó chú trọng tạo lập môi trường cạnh tranh chính đáng, công bằng, lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh nông sản và trên thị trường nông thôn.
2.3. Sử dụng đồng bộ các chính sách và công cụ quản lý, hình thành các chương trình phát triển hàng nông sản
- Xác định danh mục các mặt hàng thuộc diện ưu tiên phát triển với các tiêu chí: hàng hoá mới, sức cạnh tranh mạnh, khả năng tiêu thụ nhiều và giá trị trao đổi cao cho hai thời kỳ 2001 - 2005 và 2006 - 2010, trước mắt xây dựng các chương trình phát triển một số mặt hàng như rau quả, thủ công mỹ nghệ, bông, thịt, cây họ đậu, ngô, thuốc lá, chè, cây dược liệu, gỗ và lâm sản khác...
- Thông qua các công cụ như thuế, tín dụng, đầu tư trực tiếp, hỗ trợ kỹ thuật, cung ứng dịch vụ, tư vấn, thông tin, tìm kiếm thị trường, chắp nối bạn hàng, bảo hiểm, thưởng và các đòn bẩy kinh tế khác để những mặt hàng này từng bước đạt được chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả rẻ; lồng ghép các công cụ đó vào các chương trình đồng bộ nhằm phát triển hàng nông sản và thông qua các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản để tác động đến nông dân bảo đảm cả doanh nghiệp lẫn người sản xuất đều được hưởng lợi, đều được khuyến khích, bảo đảm nông dân trở thành đối tượng hưởng lợi từ chương trình, dự án, qua sự dẫn truyền của doanh nghiệp.
2.4. Chính sách khuyến khích, hỗ trợ thương nhân kinh doanh trên địa bàn nông thôn
a. Chính sách tín dụng và đầu tư
- Chuyển đổi cơ cấu đầu tư, tăng mạnh đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình trọng điểm thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ kinh doanh thương mại ở nông thôn bao gồm đường sá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ (bước đầu tập trung xây dựng, nâng cấp các chợ huyện với quy mô vừa (chợ loại II) đủ sức quy tập hàng nông sản và phát luồng vật tư, hàng công nghiệp tiêu dùng trong phạm vi huyện), trung tâm bán buôn hàng nông sản, kho chứa, sân phơi, lò sấy, hệ thống bảo quản, chế biến, bến cảng sông biển, phương tiện vận tải chuyên dùng, cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng để thương nhân các thành phần kinh tế có điều kiện mở rộng kinh doanh tiêu thụ ngày càng nhiều nông sản hàng hoá của nông dân, phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
- Tăng đầu tư cho hoạt động xúc tiến thương mại, phân tích, dự báo thông tin thị trường, giá cả trong và ngoài nước; cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nhân lực, nghiên cứu tiếp thị mở rộng thị trường tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản v.v... hỗ trợ toàn bộ phí truy cập internet cho tất cả các Sở Thương mại và có kinh phí thoả đáng để các Sở này phổ biến thông tin rộng rãi đến các hộ nông dân hình thức phát hành bản tin định kỳ hoặc các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, giúp họ có định hướng rõ ràng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cũng như đầu tư sản xuất.
- Cải tiến việc chi hỗ trợ phát triển thị trường và xúc tiến thương mại theo hướng dành toàn bộ khoản này cho các chương trình trọng điểm của Nhà nước, nhất là những chương trình khuyếch trương mặt hàng xuất khẩu mới hoặc thâm nhập thị trương mới.
- Cho doanh nghiệp sản xuất các loại máy nông, ngư nghiệp chủ yếu được vay tín dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển để phát triển mạng lưới đại lý mua bán, thực hiện hợp đồng hai chiều và tiến hành các phương thức thanh toán trả góp, trả chậm ở khu vực nông thôn.
- Thành lập quỹ bảo hiểm một số mặt hàng nông sản chủ lực để trợ giúp người sản xuất khi gặp rủi ro bất khả kháng, hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ sản phẩm hàng hoá trong trường hợp giá xuống thấp không tiêu thụ được.
Thông qua chính sách tín dụng và đầu tư để doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã và gia đình nông dân có đủ điều kiện vật chất và kỹ thuật giải quyết một cách cơ bản quá trình công nghệ sau thu hoạch và chế biến, trọng tâm là phơi sấy, bảo quản, dự trữ tại chỗ, sơ chế, phân loại, bao gói nông sản; biến các hạn chế về thời gian và không gian của sản xuất thành những ưu thế của thương mại đối với nhu cầu tiêu dùng.
b. Chính sách thuế
Đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, ngành hữu quan nghiên cứu ban hành một biểu thuế xuất, nhập khẩu tương đối ổn định cho thời kỳ 2002 - 2005, khi tăng thuế cần có thời gian đệm từ 1 đến 2 tháng để các doanh nghiệp kịp chuẩn bị và kết thúc các thương vụ đã lên kế hoạch kinh doanh.
c. Chính sách đất đai
- Xác lập cơ sở pháp lý cho việc tập trung ruộng đất và có quy hoạch cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thuê đất để xây dựng cơ sở vật chất nhằm xây dựng các công trình phục vụ kinh doanh thương mại, phục vụ cho thu mua, bảo quản và chế biến nông sản v.v... ở khu vực nông thôn.
- Khẩn trương cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục thế chấp, phát mại nhà, đất để thương nhân hoạt động ở địa bàn nông thôn có điều kiện vay vốn ở ngân hàng và yên tâm trong việc đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.
- Sửa đổi quy định của Nhà nước về khung giá đất sát với giá trị quyền sử dụng đất đai trong từng thời kỳ, làm cơ sở cho việc giao dịch giữa các tổ chức tín dụng và các chủ thể kinh doanh.
d. Chính sách xúc tiến thương mại, thông tin và tiếp thị
- Tạo điều kiện để tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tham tán thương mại, tăng cường đại diện tham tán thương mại tại các khu vực thị trường trọng điểm nhằm góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước xâm nhập thị trường nước ngoài. Khẩn trương hướng dẫn việc tổ chức các cơ quan xúc tiến thương mại, các trung tâm giới thiệu, quảng cáo hàng hoá ở địa phương và kể cả ở nước ngoài.
- Phối kết hợp hệ thống xúc tiến thương mại với hệ thống khuyến nông, khuyến lâm để cung cấp thông tin và dự báo thị trường và ngoài nước đối với những mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản chủ lực, các thông tin về thị hiếu, chính sách thuế, phi thuế, các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá của khách hàng để định hướng sản xuất làm ra các địa phương phù hợp và có sức cạnh tranh cao, tìm kiếm thị trường, chắp nối bạn hàng, giới thiệu đối tác, quảng cáo, triển lãm cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã và gia đình nông dân.
- Xây dựng và kết nối mạng thông tin giữa Bộ Thương mại với các địa phương, trước mắt là giữa Bộ với các thành phố lớn, các tỉnh đại diện và điển hình cho các vùng và tiểu vùng kinh tế, các tỉnh trọng điểm về nông nghiệp, các tỉnh có biên giới - cửa khẩu lớn.
- Tiếp tục phát triển các hiệp hội ngành hàng để phối hợp thông tin thị trường, giá cả, tạo lập các cơ hội tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Thực hiện một cách có hệ thống các chương trình giới thiêu, tuyên truyền và hướng dẫn tiêu dùng nông sản thực phẩm gắn với công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý chất lượng hàng hoá theo hướng tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá bằng tiêu chuẩn chất lượng và các quy chế cụ thể thay cho các biện pháp hành chính. Đa dạng các hình thức tổ chức thử nghiệm, thí điểm và đẩy mạnh quảng bá các nông sản mới, nông sản sạch, nông sản chất lượng cao. Kết hợp định hướng tiêu dùng với kích thích gia tăng nhu cầu về hàng hoá nông sản.
đ. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực thương mại
- Sớm ban hành quy định tiêu chuẩn cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước nói chung, trong thương mại nói riêng, trên cơ sở đó các doanh nghiệp xây dựng quy hoạch và kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo phù hợp.
- Có chính sách bồi dưỡng, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ thương mại cấp huyện.
- Quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, chuyên môn và quản trị kinh doanh cho giới chủ kinh doanh không phân biệt các thành phần kinh tế, trước hết là đội ngũ nhân lực của các công ty và hợp tác xã từ các nguồn đào tạo của Nhà nước và hợp tác quốc tế để hình thành dần đội ngũ doanh nhân đủ trình độ, năng lực, đồng thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân kinh doanh giỏi.
e. Chính sách ưu đãi, khuyến khích thương nhân kinh doanh ở địa bàn miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc.
Tổ chức thực hiện tốt Nghị định 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 và Nghị định 02/2002/NĐ-CP ngày 3/1/2002 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 20/2002/NĐ-CP) về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và đồng bào dân tộc, đặc biệt là các chính sách về tín dụng, thuế, trợ giá, trợ cước, bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp thương mại ở miền núi và chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cán bộ thương mại miền núi.
2.5. Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả của các hình thái tổ chức kinh doanh thương mại
- Phân loại và quy hoạch phát triển mạng lưới chợ thích ứng với quy hoạch phát triển thương mại của từng địa phương:
+ Ở thị xã, thành phố chú trọng quy hoạch phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật và hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý các chợ trung tâm, chợ đầu mối bán buôn chuyên doanh, chợ bán lẻ hàng tiêu dùng hàng ngày phục vụ khu dân cư cùng với hệ thống các siêu thị, cửa hàng tự chọn.
+ Ở nông thôn tập trung quy hoạch phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật, đầu tư xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý các chợ thị trấn, thị tứ, cụm xã và xã nằm trong cấu trúc các cụm hoặc trung tâm thương mại - dịch vụ quy mô thị tứ, thị trấn. Từng bước hình thành các chợ buôn bán tập trung, chợ đấu giá, chợ chuyên theo mặt hàng (chợ trái cây, chợ hoa, chợ rau, chợ gia súc - gia cầm, chợ lúa gạo...), các trung tâm giao dịch nông sản và vật tư hàng hoá tại các vùng nông sản trọng điểm và các vùng nông thôn ven đô; củng cố và mở rộng các chợ cửa khẩu, chợ biên giới.
- Cải tạo, nâng cấp mạng lưới mua bán cố định cùng với việc tổ chức rộng rãi các đơn vị mua bán lưu động của các thành phần kinh tế, sử dụng các phương thức mua - bán đại lý, mua bán trả góp, trả chậm; phát huy tác dụng của các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triển lãm, quảng cáo, khuyến mãi v.v... để kích cầu nông sản và vật tư, hàng tiêu dùng trên thị trường nông thôn.
- Tạo điều kiện để thương nhân thuộc các thành phần kinh tế (trước hết là các doanh nghiệp lớn) tiếp cận, chuẩn bị cơ sở vật chất - kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực nhằm từng bước tham gia vào kênh lưu thông trên mạng (thương mại điện tử) và các hình thái kinh doanh thương mại tiên tiến khác.
- Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh chế biến và lưu thông thuộc các thành phố kinh tế ký kết và thực hiện các hợp đồng tiêu thụ, hợp đồng hai chiều với hợp tác xã hoặc với nông dân, gắn kết cho được sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu, mở rộng và tạo điều kiện để hộ nông dân, kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá nông sản được sản xuất theo hợp đồng.
2.6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại
- Sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của thương nhân, đặc biệt là Luật Thương mại, Luật Hợp tác xã và các Nghị định hướng dẫn. Tiếp tục rà soát và kiên quyết bãi bỏ các quy định hiện hành không phù hợp với Luật Doanh nghiệp. Sớm ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Luật Sử dụng vốn nhà nước v.v...
- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở Trung ương, nhất là giữa Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách và đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm khuyến khích, hỗ trợ thương nhân thuộc các thành phần kinh tế trong hoạt động tìm kiếm, mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh v.v...
- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Sở Thương mại và mối quan hệ với các cơ quan có liên quan, trên cơ sở đó xây dựng mô hình quản lý phù hợp, nhất là tổ chức quản lý thương mại cấp huyện. Để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình các Sở Thương mại cần được bổ sung, hỗ trợ các nguồn lực, nhất là tài chính và cán bộ.
- Tiếp tục củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý thị trường tại các địa phương.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đội quản lý thị trường nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi kinh doanh trái pháp luật như buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng nhằm bảo đảm lợi ích của người sản xuất, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
2.7. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của thương mại nhà nước và thương mại hợp tác xã, đồng thời phát triển các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế khác.
a. Đối với thương mại nhà nước, thực hiện Nghị quyết TW3 (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết nói trên (ban hành kèm theo Quyết định 183/2001/QĐ-TTg ngày 20/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ), định hướng tổ chức lại theo các nhóm chuyên doanh và tổng hợp, gắn với hàng hoá hoặc địa bàn, vũng lãnh thổ như sau:
+ Nhóm tập đoàn, tổng công ty, hãng, công ty "mẹ" và "con" chuyên kinh doanh theo mặt hoặc nhóm hàng chính yếu hoạt động trên phạm vi thị trường cả nước;
+ Nhóm tổng công ty, công ty "mẹ" và "con" chuyên kinh doanh chủ yếu về, xuất nhập khẩu hoạt động trên phạm vi thị trường cả nước;
+ Nhóm tổng công ty, công ty thương tổng hợp (tuỳ theo nhu cầu và khả năng của từng nơi có các công ty chuyên doanh nông sản, vật tư phục vụ nông nghiệp, chuyên doanh xuất nhập khẩu...) hoạt động trên phạm vi thị trường tỉnh, thành phố.
- Về mặt sở hữu, trong ba nhóm doanh nghiệp nêu trên Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối với doanh nghiệp sản xuất lưu thông các mặt hàng, nhóm hàng thiết yếu, có vị trí và vai trò quan trọng về kinh tế - xã hội cả trong sản xuất và đời sống (chẳng hạn bán buôn xăng dầu, bán buôn lương thực, mua bán các mặt hàng chính sách hoạt động ở địa bàn miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng sâu, vùng xa...) và chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn. Các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sẽ được củng cổ, sắp xếp theo hướng cổ phần hóa, trong đó Nhà nước có cổ phần (với nhiều mức độ: cổ phần lớn, cổ phần ưu đãi, cổ phần đặc biệt, cổ phần thông thường) hoặc không có cổ phần. Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hóa được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả nhưng không thực hiện được các hình thức nêu, giải quyết theo hướng sáp nhập, giải thể hoặc tuyên bố phá sản.
- Việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của thương mại nhà nước ở thị trường nông thôn (từ huyện đến xã) thực chất là sắp xếp và củng cổ mạng lưới chân rết bên dưới của ba nhóm Tập đoàn, Hãng, Tổng công ty, Công ty thương mại "mẹ" và "con", Công ty trên đây. Cụ thể là:
a.1) Đối với thương mại nhà nước ở các huyện nông thôn đồng bằng, vì trên địa bàn này thương mại ngoài quốc doanh đã phát triển khá đông đảo và rộng khắp, đủ sức bảo đảm lưu thông hầu hết các mặt hàng phục vụ cả đời sống và sản xuất của cư dân nông thôn, nêu việc củng cố và phát triển thương mại nhà nước có thể theo phương hướng sau đây:
+ Duy trì, củng cố và mở rộng các cơ sở kinh doanh chân rết bên dưới (chủ yếu là chi nhánh, cửa hàng) của các Tập đoàn, Hãng, Tổng Công ty, Công ty chuyên doanh theo mặt hàng, nhóm hàng hoặc chuyên doanh xuất nhập khẩu xuyên suốt cả nước và bố trí lại các cơ sở này tại các Trung tâm thương mại thị trấn và Cụm thương mại thị tứ.
+ Duy trì một số đơn vị của thương mại nhà nước chuyên kinh doanh một số mặt hàng như dược phẩm, dụng cụ y tế, sách và thiết bị trường học v.v... tại khu vực thị trấn.
+ Đánh giá, lựa chọn, sắp xếp, sáp nhập và củng cố các cơ sở hiện đang kinh doanh thương mại tổng hợp hoặc chuyên doanh thành một hoặc hai chi nhánh, cửa hàng (hoặc công ty con - đối với những huyện nông nghiệp trọng điểm, huyện chuyên canh nông sản tập trung, huyện kinh tế nông thôn phát triển) trực thuộc các tổng công ty, công ty ở thành phố và thị xã, đặt tại thị trấn và bên dưới là các cửa hàng, điểm mua bán đặt tại các thị tứ. Các cơ sở kinh doanh thương mại này tập trung vào cung ứng vật tư thiết yếu phục vụ sản xuất - chế biến và tiêu thụ các nông sản chủ lực, có sản lượng lớn, tạo thành nguồn cung cấp chính cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Hoạt động chủ yếu của thương mại nhà nước ở thị trấn, thị tứ là cung ứng những vật tư đầu vào thiết yếu cho sản xuất và một số hàng tiêu dùng quan trọng, tham gia sản xuất - chế biến nông sản, tiêu thụ những nông sản chủ lực theo hợp đồng hai chiều, hợp đồng đầu tư sản xuất và bao tiêu sản phẩm, hợp đồng gia công nông sản hàng hoá, hợp đồng cung ứng trước và thu mua sau để phát huy vai trò đối tác với nông dân, đối trọng với các thành phần kinh tế khác và định hướng, điều tiết, chi phối và thúc đẩy thị trường nông thôn phát triển.
a.2) Đối với thương mại nhà nước ở các huyện nông thôn miền núi, ngoài mô hình chung giống như nông thôn đồng bằng có thể được tổ chức lại theo một trong hai mô hình dưới đây:
+ Mô hình một doanh nghiệp: trên địa bàn toàn tỉnh có thể duy trì một doanh nghiệp thương mại kinh doanh tổng hợp bao gồm cả hoạt động xuất nhập khẩu và phục vụ miền núi. Sơ đồ tổ chức là: Công ty đặt tại tỉnh - Cửa hàng trực thuộc đặt tại huyện - Mạng lưới điểm mua, bán trực tiếp đặt tại xã, cụm xã.
+ Mô hình nhiều doanh nghiệp: trên địa bàn toàn tỉnh có thể duy trì một số doanh nghiệp thương mại kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh, trong đó bao gồm cả kinh doanh xuất nhập khẩu và phục vụ miền núi. Sơ đồ tổ chức là: Các công ty đặt tại tỉnh hoặc liên huyện (các huyện có địa bàn rộng lớn có thể đặt tại huyện) - Cửa hàng trực thuộc đặt tại huyện - Mạng lưới điểm mua, bán trực tiếp đặt tại xã, cụm xã.
- Thương mại nhà nước tiếp tục mở rộng mạng lưới mua, bán trực tiếp đến cụm xã và trong điều kiện có thể, phấn đấu phát triển mạng lưới đến xã. Điểm mua - bán của thương mại nhà nước phải gắn với chợ (ở những nơi đã có chợ) hoặc phải nằm trong các quy hoạch chợ. Đặc biệt chú trọng phát triển mạng lưới đại lý, sử dụng các thành phần kinh tế và các lực lượng tại chỗ làm đại lý nhằm phục vụ nhu cầu của sản xuất và đời sống của cư dân trên từng địa bàn.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với những doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
b. Đối với hợp tác xã thương mại - dịch vụ, việc thành lập các hợp tác xã là do nhu cầu hợp tác của cá nhân, hộ gia đình trong sản xuất, kinh doanh. Các hợp tác xã tự quyết định hình thức tổ chức và nội dung kinh doanh cho phù hợp với điều kiện và khả năng của từng nơi và quy định của pháp luật theo hướng dưới đây:
+ Ở khu vực nông thôn đồng bằng, có thể tổ chức theo 2 loại hình sau:
- Thứ nhất: khuyến khích phát triển các HTX đa chức năng (trong đó có hoạt động thương mại) hoặc HTX dịch vụ tổng hợp không phụ thuộc vào địa giới hành chính, chú trọng mô hình HTXNN-TM-DV hoạt động chủ yếu là dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp (những dịch vụ mà HTX thực hiện có hiệu quả hơn là cá nhân, hộ gia đình thực hiện) như cung ứng các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất kinh tế hộ, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống, hỗ trợ xã viên trong tìm kiếm thị trường, bạn hàng, nguồn hàng, trực tiếp tổ chức hoặc liên doanh, liên kết với DNNN, HTX, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể nhằm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho xã viên HTX và các đối tượng khác trên địa bàn. Ngoài ra, tuỳ theo điều kiện và khả năng cụ thể, các HTX có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh khác. HTX phục vụ tất cả các đối tượng có nhu cầu, nhưng trước hết là xã viên.
- Thứ hai: ở khu vực thị trấn, thị tứ hoặc gần khu công nghiệp, vùng ven đô hoặc gần các trục lộ lớn, vùng cảng sông... có thể thành lập các HTX kinh doanh tổng hợp với quy mô vừa và nhỏ với hoạt động chính là làm đại lý cho các DNNN và Liên hiệp HTXTM kiêm bán lẻ vật tư phục sản xuất nông nghiệp như phân bón, xăng, dầu, thuốc trừ sâu: đại lý hoặc trực tiếp bản lẻ một số hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ cư dân trong vùng; tự tổ chức hoặc phối hợp với thương lái, đầu nậu, chủ vựa thu mua nông sản hàng hoá và xây dựng các cơ sở chế biến với quy mô nhỏ (chủ yếu là sơ chế) nhằm bảo quản, tạm trữ và gia tăng giá trị hàng hoá. Riêng những huyện lỵ, thị trấn nằm trong khu vực có kinh tế hộ, kinh tế trang trại và các làng nghề thủ công đã phát triển sản xuất hàng hoá tương đối tập trung thì có thể thành lập các HTX kinh doanh tổng hợp với quy mô lớn hơn.
+ Ở khu vực nông thôn miền núi, trung du, chú trọng phát triển các HTXNN-TM-DV hoặc HTX kinh doanh tổng hợp với các hình thức bản lẻ linh hoạt ở trung tâm các cụm xã, trong các chợ ở khu vực biên giới, khu kinh tế cửa khẩu, khu du lịch v.v... nhằm cung ứng vật tư nông nghiệp, hàng tiêu dùng thiết yếu, công cụ sản xuất thông thường và hàng chính sách, kết hợp thu mua nông, lâm, thủy sản của kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
Những nơi chưa có điều kiện thành lập HTX (khu vực II, III) có thể phát triển hình thức kinh tế hợp tác ở mức độ thấp hơn như tổ hợp tác mua chung - bán chung, mua chung - bán riêng hoặc các tổ dịch vụ để hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống.
c. Đối với thương mại tư nhân
Khuyến khích phát triển các loại hình thương mại tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp theo hướng ổn định, lâu dài, bền vững, có hiệu quả, chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể trên thị trường nông thôn (huyện, xã); có chính sách liên kết, hợp tác và từng bước biến lực lượng này thành các đơn vị vệ tinh, các "nhà thầu phụ" cho thương mại nhà nước, tập trung vào khâu thu mua và bán lẻ, tăng cường sử dụng các phương thức đại lý mua bán và uỷ thác, phát huy vị trí và vai trò của các thành phần này ở đoạn đầu của kênh tiêu thụ nông sản và ở đoạn cuối của kênh phân phối vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sau khi Đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn thời kỳ đến 2010 được Chính phủ thông quan, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án và thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án do một Phó Thủ tướng làm Trưởng Ban.
2. Đề nghị Chính phủ giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành có liên quan và các địa phương quán triệt các quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển thương mại trong tất cả các cơ quan trực thuộc và các doanh nghiệp, đồng thời trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của cả nước, của các ngành và địa phương, xây dựng kế hoạch triển khai Đề án này trong phạm vi ngành và địa phương mình ngay từ những năm đầu của thập kỷ 2001 - 2010.
3. Bộ Thương mại có trách nhiệm:
+ Từ Đề án tổng thể này, xây dựng và triển khai các Đề án cụ thể như tổ chức và phát triển các hệ thống thương nhân (thương mại nhà nước, thương mại hợp tác xã, thương mại tư nhân), tổ chức và phát triển các hình thái thương mại đặc thù (chợ nông thôn và miền núi, siêu thị, chợ đấu giá, chợ buôn bán tập trung nông sản, thị trường giao sau, trung tâm thương mại, sàn giao dịch hàng hoá, thương mại điện tử...)
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Liên minh HTX Việt Nam và một số địa phương tổ chức thực hiện thí điểm các mô hình tổ chức thương mại nông thôn: Trung tâm thương mại - dịch vụ thị trấn, Cụm thương mại - dịch vụ thị tứ, trong đó các đơn vị thương mại nhà nước gắn theo quan hệ dọc với Công ty Vật tư nông nghiệp và Nông sản (địa bàn thành phố, thị xã) và gắn theo quan hệ ngang với chợ, kho, cơ sở sản xuất - chế biến nông sản, Hợp tác xã Nông nghiệp - Thương mại - Dịch vụ và thương nhân khác (địa bàn thị trấn, thị tứ), qua đó rút kinh nghiệm và chuẩn bị các điều kiện tiền đề cần thiết để áp dụng rộng rãi, có tính đại trà trên phạm vi nông thôn toàn quốc.
+ Xây dựng và ban hành chính sách theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Bộ Thương mại; phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trong quá trình xây dựng, hướng dẫn và chỉ đạo tổ chức thực hiện các chính sách đối với các hệ thống thương nhân và các hình thái thương mại đặc thù.
4. Đề nghị Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Uỷ ban Dân tộc và miền núi, Tổng cục Địa chính và các bộ, ngành có liên quan trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan rà soát các chính sách hiện hành nhằm sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chính sách mới liên quan đến thị trường trong nước nói chung, thị trường nông thôn nói riêng; tiếp đó là hướng dẫn đầy đủ kịp thời, đồng bộ và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cũng như môi trường kinh doanh bình đẳng cho hoạt động của thương nhân, nhất là thương nhân hoạt động ở địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo trong lĩnh vực chế biến và tiêu thụ nông sản.
BỘ THƯƠNG MẠI
PHỤ LỤC 1
SƠ ĐỒ TRỰC QUAN VỀ CẤU TRÚC TỔNG THỂ HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
|
|
|
|
|
|
|
| ||||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| ||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
PHỤ LỤC 2
SƠ ĐỒ TRỰC QUAN VỀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI Ở THỊ TRẤN VÀ THỊ TỨ
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| ||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
|