Công văn 14531/BTC-CST năm 2014 về xuất khẩu quặng sắt Quý Xa đối lưu nhập khẩu than cốc do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu | 14531/BTC-CST |
Ngày ban hành | 14/10/2014 |
Ngày có hiệu lực | 14/10/2014 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài chính |
Người ký | Vũ Thị Mai |
Lĩnh vực | Xuất nhập khẩu |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 14531/BTC-CST |
Hà Nội, ngày 14 tháng 10 năm 2014 |
Kính gửi: Văn phòng Chính phủ
Bộ Tài chính nhận được công văn số 6980/VPCP-KTN ngày 10/9/2014 của Văn phòng Chính phủ đề nghị Bộ Tài chính có ý kiến đề nghị của Bộ Công Thương tại công văn số 8482/BCT-CNNg ngày 29/8/2013 về việc xuất khẩu quặng sắt Quý Xa đối lưu nhập khẩu than cốc. Về việc này Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Tại Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 9/1/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo:
"c) Quặng sắt: Dừng hoàn toàn việc xuất khẩu quặng sắt Tổ chức khai thác có hiệu quả dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê và các dự án khai thác quặng sắt khác để phục vụ cho các cơ sở sản xuất gang, thép trong nước. Đối với các mỏ đang khai thác, nếu không bảo đảm hiệu quả và yêu cầu về môi trường thì cần có phương án đóng cửa mỏ và hoàn thổ theo quy định. "
Mặt hàng quặng sắt không thuộc Phụ lục danh mục, tiêu chuẩn, chất lượng khoáng sản xuất khẩu ban hành kèm theo Thông tư số 41/2012/TT-BCT ngày 21/12/2012 của Bộ Công Thương quy định về xuất khẩu khoáng sản, do vậy không thuộc diện được phép xuất khẩu. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 41/2012/TT-BCT ngày 21/12/2012 của Bộ Công Thương quy định về xuất khẩu khoáng sản:
"Điều 6. Trường hợp cá biệt
1. Đối với các trường hợp sau, nếu doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu khoáng sản thì phải báo cáo UBND cấp tỉnh (nơi khoáng sản đó được khai thác, chế biến) để UBND tổ chức kiểm tra, xác nhận và có văn bản đề nghị Bộ Công Thương xem xét, giải quyết:
- Khoáng sản có tên trong danh mục được xuất khẩu, đã qua chế biến nhưng không thể đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định do nguyên nhân khách quan (như: do đặc điểm địa chất mỏ, khoáng sản là sản phẩm phụ thu hồi được trong quá trình chế biến khoáng sản chính, quặng đuôi thải thu hồi được nhưng trình độ công nghệ hiện tại không thể nâng hàm lượng được
- Khoáng sản tồn kho của các mỏ có giấy phép khai thác nhưng đã hết hiệu lực.
- Khoáng sản không thuộc danh mục được xuất khẩu, nhưng trong nước không có nhu cầu tiêu thụ hoặc không tiêu thụ hết.
- Khoáng sản xuất khẩu để đối lưu nhập khẩu hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất trong nước.
Trên cơ sở văn bản đề nghị của UBND cấp tỉnh, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể. "
Theo nội dung công văn của Bộ Công Thương thì mặt hàng quặng sắt limonite của mỏ Quý Xa được xuất khẩu để đối lưu nhập khẩu than luyện cốc và cốc luyện kim phục vụ cho Nhà máy Gang thép Lào Cai sản xuất phôi thép. Căn cứ giải trình của Bộ Công Thương: Do nguồn cung than cốc trong nước còn chưa thuận lợi (không thuận lợi về địa lý, cung độ vận tải xa...), mặt khác để đảm bảo cam kết của VNSTEEL với KISC trong Hợp đồng liên doanh, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong giai đoạn đầu vận hành Nhà máy, Bộ Tài chính thấy đề xuất Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương để VNSTEEL được xuất khẩu quặng sắt mỏ Quý Xa để đối lưu than mỡ luyện cốc và cốc luyện kim cung cấp cho Nhà máy Gang thép Lào Cai và các đơn vị sản xuất gang thép trong nước theo quy định tại Hợp đồng liên doanh là phù hợp với quy định tại Thông tư số 41/2012/TT-BCT. Tuy nhiên Bộ Công Thương cần cân nhắc thêm về số lượng cho phép xuất khẩu và thời hạn xuất khẩu. Cụ thể:
Về số lượng cho phép xuất khẩu: Bộ Công Thương đề xuất là không quá 1,5 triệu tấn/năm. Tuy nhiên theo tính toán của Bộ Công Thương thì hiện nay công suất khai thác mỏ có thể đạt 2,5-3 triệu tấn/năm. Với công suất giai đoạn I là 500.000 tấn phôi thép/năm, Nhà máy Gang thép Lào Cai có nhu cầu sử dụng 900.000 tấn quặng sắt trong đó có 540.000 tấn quặng limonite Quý Xa (tỷ lệ phối trộn hiện tại là 60%), còn lại 360.000 tấn quặng magnetit. Dự kiến nâng tỷ lệ phối trộn lên 70% thì sẽ tương đương 630.000 tấn quặng limonite/năm cần cho sản xuất phôi thép của Nhà máy Gang thép Lào Cai. Như vậy với công suất giai đoạn I của Nhà máy là 500.000 tấn phôi thép/năm thì cần 630.000 tấn quặng limonite. Với công suất khai thác quặng sắt limonite đạt 2,5-3 triệu tấn thì lượng quặng limonite dư thừa còn lại là 1,87-2,37 triệu tấn. Tuy nhiên đến giai đoạn 2 khi Nhà máy nâng công suất lên 1 triệu tấn phôi thép/năm thì lượng quặng limonite cần để phối trộn cũng tăng lên tương ứng tà 1,26 triệu tấn, Với công suất khai thác quặng sắt limonite đạt 2,5-3 triệu tấn thì lượng quặng limonite dư thừa chỉ còn lại là 1,24-1,74 triệu tấn. Do vậy, đề nghị Bộ Công Thương cân đối lại số lượng quặng sắt limonite được phép xuất khẩu cho phù hợp, đảm bảo đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước theo từng thời kỳ. Ngoài ra quặng sắt cũng thuộc diện cấm xuất khẩu theo Chỉ thị 02/CT-TTg nên việc Bộ Công Thương đề xuất cho phép xuất khẩu đến 1,5 triệu tấn/năm (như vậy chỉ tiêu cho xuất khẩu vượt quá lượng dư thừa) là không phù hợp với chủ trương hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô. Bộ Tài chính kiến nghị chỉ nên cho phép xuất khẩu không quả 1 triệu tấn quặng sắt limonite/năm.
- Về thời hạn xuất khẩu: Bộ Công Thương đề xuất cho phép xuất khẩu trong 5 năm, kể từ tháng 9/2014. Tuy nhiên tại công văn số 8483/BCT-CNNg có nêu với lượng quặng sắt đã xuất khẩu là 1,38 triệu tấn từ năm 2008-2011, hiện nay VNSTEEL đã nhập đối lưu 40.000 tấn cốc, dự kiến nhập khẩu tiếp trong năm 2014 và đầu năm 2015 khoảng 210.000 tấn cốc để cung cấp đủ nguyên liệu cho Nhà máy hoạt động đến hết tháng 6 năm 2015. Do vậy trước mắt chỉ cho phép lượng cần thiết phải xuất khẩu ngay quặng sắt limonite để đổi lấy cốc luyện kim phục vụ cho nhu cầu sản xuất của Nhà máy gang thép Lào Cai năm 2015. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng cần xem xét đánh giá tổng thể nhu cầu quặng sắt limonite của các doanh nghiệp sản xuất sắt thép trong nước để ưu tiên phục vụ sản xuất nội địa trước.
Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung đề xuất của Bộ Công Thương tại công văn số 8482/BCT-CNNg ngày 29/8/2013 để Văn phòng Chính phủ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
|
KT. BỘ TRƯỞNG |