Công văn 1209/TCTHADS-NV1 năm 2013 giải đáp nghiệp vụ thi hành án do Tổng cục Thi hành án dân sự ban hành

Số hiệu 1209/TCTHADS-NV1
Ngày ban hành 27/05/2013
Ngày có hiệu lực 27/05/2013
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Thi hành án dân sự
Người ký Hoàng Sỹ Thành
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

BỘ TƯ PHÁP
TỔNG CỤC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1209 /TCTHADS-NV1
V/v giải đáp nghiệp vụ thi hành án

Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2013

 

Kính gửi: Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Thời gian qua, nhiều Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Công văn đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự giải đáp một số vướng mắc về nghiệp vụ thi hành án dân sự. Sau khi thống nhất với Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 10) Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Thi hành án dân sự có ý kiến về các vấn đề đó như sau (dưới đây, vướng mắc nghiệp vụ địa phương đề nghị giải đáp là phần chữ nghiêng):

I. VỀ LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2008

1. Khoản 2 Điều 2 quy định: "2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:

a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;

b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời."

Nhưng tại Điều 35 Luật Thi hành án dân sự về thẩm quyền thi hành án thì vấn đề này lại không được đặt ra cho các cơ quan thi hành án dân sự, còn Điều 36 Luật Thi hành án dân sự về việc ra Quyết định thi hành án thì đưa vấn đề này vào nhưng nêu một cách chung chung "1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định sau đây... đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời".

Theo các quy định trên thì Luật Thi hành án dân sự không trao thẩm quyền cụ thể việc ra Quyết định thi hành án đối với các Bản án, Quyết định quy định tại Khoản 2 Điều 2. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự không được ra Quyết định thi hành án đối với các trường hợp này. Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan Thi hành án dân sự vẫn ra Quyết định thi hành án đối với các Bản án, Quyết định trên.

Các Bản án, Quyết định quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự là Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Theo Điểm a, Khoản 1 và Điểm a Khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự quy định về thẩm quyền thi hành án thì các Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án đã bao hàm cả Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án cấp sơ thẩm ban hành. Như vậy, căn cứ vào Điều 35, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với các trường hợp trên. Tuy nhiên, đối với Bản án, Quyết định quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 2 không thuộc trường hợp cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án nên cơ quan thi hành án dân sự chỉ thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án.

2. Khoản 2 Điều 12 quy định: "Viện Kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật”. Vậy trong quá trình tổ chức thi hành án, Cơ quan thi hành án dân sự có phải chủ động mời Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật công tác thi hành án dân sự hay không?

Luật Thi hành án dân sự không quy định cơ quan thi hành án dân sự mời hay không mời Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát các hoạt động về thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự mời hay không mời không làm mất đi tính chủ động của Viện Kiểm sát trong quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án. Viện Kiểm sát chủ động kiểm sát hoạt động thi hành án thông qua việc kiểm sát thường xuyên các quyết định về thi hành án do Cơ quan thi hành án dân sự gửi (theo luật định) và nếu cần thiết Viện Kiểm sát sẽ thực hiện các quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu hoặc trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án. Tuy nhiên cơ quan thi hành án dân sự nên chủ động phối hợp chặt chẽ với Viện Kiểm sát trong quá trình tổ chức thi hành án để việc thi hành án đạt hiệu quả, đúng pháp luật, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật.

3. Khoản 2 Điều 34 quy định việc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án phải được thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án. Có ý kiến cho rằng cần bổ sung vào Điều luật quy định cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo việc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để thực hiện việc kiểm sát.

Luật Thi hành án dân sự chỉ quy định cơ quan thi hành án dân sự phải gửi các Quyết định về thi hành án cho Viện Kiểm sát. Còn các văn bản, tài liệu khác thì không bắt buộc gửi tất cả cho Viện Kiểm sát. Đối với các văn bản, tài liệu này Viện Kiểm sát nếu xét thấy cần để thực hiện nhiệm vụ, chức năng kiểm sát thì thực hiện quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ tài liệu; hoặc thông qua kiểm sát thường xuyên các quyết định thi hành án; hoặc trực tiếp kiểm sát.

4. Khoản 2 Điều 39 quy định: "Việc thông báo phải thực hiện trong 3 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán tài sản, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án".

Thực tế cho thấy, việc thực hiện quy định này rất khó khăn nhất là đối với miền núi dân cư thưa thớt, điều kiện đi lại khó khăn và các xã cách trung tâm huyện lỵ, đồng bào phải đi làm nương rẫy xa nhà nhiều ngày mới về, Chấp hành viên phải đi lại nhiều lần mới gặp nên khó khăn cho việc giao nhận thông báo. Bên cạnh đó, một số cơ quan thi hành án có số lượng vụ việc phải tổ chức thi hành lớn, trong khi biên chế, kinh phí, phương tiện còn hạn chế, địa bàn hoạt động rộng thì không thể đảm bảo thông báo cho tất cả các đương sự, các vụ việc kịp thời theo quy định của Luật.

Thực tế, Luật quy định như vậy nhằm tránh kéo dài việc thi hành án. Cần hiểu là phải thực hiện việc thông báo trong thời hạn 3 ngày làm việc mà không phải trong 3 ngày phải đưa thông báo đến tay người được thông báo. Việc thông báo đến nơi cần được thông báo còn tùy thuộc hình thức thông báo vì không phải chỉ có một hình thức thông báo là đưa trực tiếp cho đương sự mà có nhiều hình thức khác được quy định tại khoản 3 Điều này.

5. Khoản 2 Điều 44 quy định: "Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày chủ động ra Quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu xác minh của người được thi hành án. Chấp hành viên phải tiến hành việc xác minh. Trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay..."

Một số ý kiến cho rằng Luật quy định thời gian xác minh trong thời hạn 10 ngày là quá ít. Bởi theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự phải ra Quyết định thi hành án trong 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án, kể từ khi ra Quyết định thi hành án thì trong thời hạn 2 ngày mới phân công Chấp hành viên. Như vậy, còn 3 ngày thì Chấp hành viên không đủ thời gian để tiến hành xác minh. Luật không có gia hạn về thời hạn xác minh nên tình trạng Chấp hành viên vi phạm về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án xẩy ra nhiều, chưa có biện pháp khắc phục. Vi vệc xác minh điều kiện thi hành án được tiến hành trong thời gian tự nguyện thi hành án; nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành án thì việc xác minh điều kiện thi hành án là không cần thiết

Trường hợp này cần hiểu là: Thời hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 5 ngày, và 10 ngày để tính thời gian xác minh là tính từ ngày ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu, và trừ 2 ngày phân công Chấp hành viên thì còn 8 ngày để Chấp hành viên tiến hành xác minh lần đầu. Đồng thời việc xác minh có thể bằng hình thức Chấp hành viên ban hành công văn yêu cầu đơn vị, tổ chức đang nắm giữ thông tin về tài sản hoặc đang quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án cung cấp thông tin về tài sản, hoặc trực tiếp xác minh... Tuy nhiên, trên thực tế cũng có trường hợp cùng một lúc có nhiều Quyết định thi hành án được ban hành nên Tổng cục Thi hành án dân sự sẽ nghiên cứu, đề xuất vào nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự 2008.

6.  Khoản 1 Điều 45 quy định thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được thông báo hợp lệ Quyết định thi hành án. Khoản 1 Điều 46 lại quy định: hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Trong thực tế đương sự có điều kiện và tự nguyện thi hành án nhưng để giải quyết tài sản thì cần thời gian nhiều hơn đặc biệt liên quan đến tài sản là nhà cửa và đất đai; có trường hợp Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nhưng để thực hiện xong thì không dưới 3 tháng hoặc có khi kéo dài trên một năm, kèm theo đó là huy động lực lượng, chi phí cưỡng chế, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Do đó, đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự theo hướng kéo dài thời gian tự nguyện thi hành án là 30 ngày, đối với thi hành án liên quan đến nhà đất thì thời gian tự nguyện là 60 ngày. Có như vậy thì đương sự mới đủ thời gian giải quyết tài sản, lo liệu nơi ăn chốn ở và tự chủ trong việc thi hành án có lợi hơn là áp dụng biện pháp cưỡng chế.

Án có hiệu lực phải được thi hành, nhưng để đảm bảo tính nhân đạo, khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án, Luật đã quy định thêm thời gian tự nguyện là 15 ngày, khi hết thời hạn "thì bị cưỡng chế". Việc cưỡng chế thực hiện ngay sau khi hết hạn luật định. Việc cưỡng chế hoàn thành xong ngay hay kéo dài còn tùy thuộc vào vụ việc cụ thể mà không có giới hạn về mặt thời gian. (Ví dụ: kéo dài do khi kê biên có tranh chấp, khiếu nại... hoặc thi hành xong ngay khi tiến hành khấu trừ trên tài khoản...)

7. Điều 46 quy định:

“1. Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.

2. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định”.

Như vậy, hết thời hạn tự nguyện nếu người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Luật không quy định thời điểm ra Quyết định cưỡng chế dẫn đến việc Cơ quan thi hành án dân sự tùy tiện, có việc tổ chức cưỡng chế ngay sau khi hết thời gian tự nguyện, có việc để kéo dài. Đề nghị quy định rõ thời hạn ra quyết định cưỡng chế bao nhiêu ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án.

Đến nay chưa có văn bản hướng dẫn của Chính phủ về những "trường hợp khác" không được tổ chức cưỡng chế theo quy định tại khoản 2 Điều này.

Về nguyên tắc hết thời hạn tự nguyện, nếu người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế, tuy nhiên do có các biện pháp cưỡng chế khác nhau nên Chấp hành viên có quyền lựa chọn để áp dụng biện pháp cưỡng chế thích hợp theo quy định của Luật và qui định tại Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.

[...]