Chương trình 02-CTr/TU về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011 – 2015 do Thành ủy Hà Nội ban hành

Số hiệu 02-CTr/TU
Ngày ban hành 29/08/2011
Ngày có hiệu lực 29/08/2011
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Thành phố Hà Nội
Người ký Phạm Quang Nghị
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

THÀNH ỦY HÀ NỘI
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------------

Số: 02-CTr/TU

Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2011

 

CHƯƠNG TRÌNH

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, TỪNG BƯỚC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NÔNG DÂN GIAI ĐOẠN 2011 – 2015

Nông thôn thành phố Hà Nội với diện tích đất sản xuất nông, lâm nghiệp trên 192 ha, dân số trên 4 triệu người, chiếm trên 60% lực lượng lao động của toàn Thành phố, là nơi cung cấp nguồn nhân lực xây dựng Thủ đô, đất đai cho phát triển, xây dựng hạ tầng và đô thị, cung cấp lương thực, thực phẩm, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng cho Thành phố nên có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển Thủ đô.

Để sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị, hiệu quả kinh tế cao; xây dựng nông thôn mới phát triển theo quy hoạch, cơ sở hạ tầng được từng bước đầu tư đồng bộ, hiện đại đảm bảo môi trường sinh thái, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nông thôn không ngừng được nâng cao, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố xây dựng Chương trình “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn 2011 – 2015, nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố với những nội dung cơ bản như sau:.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN VÀ NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NÔNG DÂN, GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

I- NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1- Thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới của Đại hội XIV Đảng bộ Thành phố, 5 năm qua, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả quan trọng; cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất các ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp là: 42,9% - 50,0% - 4,45% - 2,37%. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp giai đoạn 2006 – 2010 đạt bình quân 1,75% năm; tổng sản lượng lương thực đạt trên 1 triệu tấn/ năm; an ninh lương thực được bảo đảm tốt hơn; một số chỉ tiêu chủ yếu khác đều đạt và vượt kế hoạch. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng hiệu quả: diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả đặc sản tiếp tục được mở rộng.

Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất được coi trọng; bước đầu đã hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa tập trung với năng suất và giá trị thu nhập cao như: vùng sản xuất lúa chất lượng cao, vùng sản xuất rau an toàn, vùng cam Canh, bưởi Diễn, vùng chăn nuôi gia cầm, bò thịt, bò sữa tập trung tại các huyện Đông Anh, Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Ba Vì, Thanh Trì và Mê Linh….Nhiều hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp hoạt động có hiệu quả, các loại hình dịch vụ nông nghiệp, thương mại, vận tải…phát triển mạnh ở các huyện, thị xã đã góp phần tích cực thúc đẩy các hoạt động kinh tế khu vực nông thôn.

2 – Khu vực nông thôn được chú trọng đầu tư và có nhiều biến đổi tích cực, các chương trình của Thành ủy về phát triển kinh tế - xã hội ngoại thành được triển khai nghiêm túc, có hiệu quả. Thành phố đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, nhiều dự án đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho nông dân được triển khai thực hiện.Các công trình thủy lợi, đê điều, kè chống sạt lở bờ sông Đà, sông Hồng, sông Đáy, sông Bùi được đầu tư cải tạo nâng cấp.

Hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông nông thôn, điện, nước sạch được quan tâm đầu tư. Các đường liên xã được nâng cấp, đường liên thôn và đường làng phần lớn được bê tông hóa: 100% số xã có trạm y tế (trong đó 77,6% trạm y tế xã có bác sỹ). Hệ thống trường học và thiết bị dạy học được đầu tư nâng cấp, góp phần từng bước nâng cao chất lượng giáo dục ở khu vực nông thôn. Công trình nhà văn hóa, sân vận động thể thao ở nhiều nơi được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp. Công tác vệ sinh môi trường bước đầu đã được quan tâm đầu tư, tỷ lệ xã, thôn được thu gom rác thải trên địa bàn Thành phố đạt trên 74%.

3- Đời sống nông dân được cải thiện và từng bước nâng cao, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đã tăng từ 5,7 triệu đồng/ năm 2006 lên trên 13 triệu đồng/ năm 2010. Nông thôn không còn nhà dột nát, đa số các hộ gia đình có nhà kiên cố, khang trang; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm 1,5%; tỷ lệ dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt trên 84%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 33%; công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nông dân có nhiều tiến bộ, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao.

An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nông thôn được giữ vững, một số nơi có chuyển biến tích cực. Hệ thống các thiết chế văn hóa từ thành phố tới nông thôn tiếp tục được đầu tư, hoàn thiện, quy mô, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng cao, cơ bản đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nông dân, nhiều hoạt động văn hóa, thể thao thường xuyên được tổ chức đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần nông dân, hạn chế các tệ nạn xã hội. Tổ chức việc cưới, việc tang, lễ hội ở nhiều nơi có tiến bộ rõ rệt theo hướng đơn giản, tiết kiệm và văn minh.

II- HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

1- Sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn là sản xuất quy mô nhỏ, phân tán, chất lượng nông sản và hiệu quả sản xuất chưa cao; chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi còn chậm. Việc xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại phát triển thị trường tiêu thụ nông, lâm sản hàng hóa chưa được quan tâm đúng mức, sản phẩm tiêu thụ chủ yếu là ở dạng thô, chưa qua chế biến nên giá trị và sức cạnh tranh của hàng hóa, nông sản còn thấp. Việc hỗ trợ của Nhà nước cho sản xuất nông nghiệp còn hạn chế, nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp và hộ gia đình nông dân đầu tư để tích tụ ruộng đất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và thiết bị công nghệ mới vào sản xuất.

2- Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch xây dựng nông thôn mới còn nhiều yếu kém. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đầu tư chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu. Hạ tầng về giao thông, thủy lợi, điện phục vụ sản xuất một số nơi còn nhiều khó khăn. Vệ sinh môi trường khu vực nông thôn ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là ở các khu vực làng nghề chế biến nông sản và hộ chăn nuôi quy mô lớn trong khu vực dân cư. Quản lý đất đai ở nhiều nơi bị buông lỏng, dẫn tới lấn chiếm, sử dụng sai mục đích. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội khu vực nông thôn còn tiềm ẩn yếu tố mất ổn định, có nơi còn diễn biến phức tạp.

3- Đời sống và thu nhập của một số bộ phận nông dân còn thấp, chênh lệch về thu nhập và hưởng thụ văn hóa của người dân ở khu vực nông thôn và khu vực thành thị còn khoảng cách lớn; nhiều lao động nông thôn thiếu việc làm, thu nhập không ổn định. Chất lượng các dịch vụ về y tế, giáo dục ở nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhân dân, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch chưa nhiều. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn cao, đời sống một bộ phận nông dân, nhất là ở vùng xa trung tâm còn nhiều khó khăn. Kết quả đào tạo nghề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là ở những nơi thu hồi đất nông nghiệp còn nhiều hạn chế.

III- NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

1- Cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả, chất lượng cao còn thiếu đồng bộ, còn chồng chéo, chưa rõ trọng tâm, khó vận dụng và tổ chức thực hiện trong thực tiễn.

2- Đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng hạ tầng nông thôn còn ở mức thấp, dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với vị trí, tầm quan trọng và đóng góp của khu vực nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển Thủ đô. Trình độ, năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế.

3- Một số cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình xây dựng và phát triển Thủ đô, do vậy chưa quan tâm lãnh đạo, kiểm tra thường xuyên, sâu sát, quyết liệt; thiếu các giải pháp cụ thể, hiệu quả để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn và nâng cao đời sống nông dân.

PHẦN THỨ HAI

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, TỪNG BƯỚC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NÔNG DÂN GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

I- MỤC TIÊU

1- Mục tiêu chung

- Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa tập trung, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

- Xây dựng nông thôn mới phát triển theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái, cảnh quan sạch đẹp, gắn kết hợp lý giữa phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị.

- Từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nông dân. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc; chú trọng giải quyết việc làm, giảm dần khoảng cách thu nhập, hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn và thành thị.

[...]