Chỉ thị 108/CT năm 1985 về thanh toán các khoản Nhà nước vay dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ do Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành

Số hiệu 108-CT
Ngày ban hành 28/03/1985
Ngày có hiệu lực 12/04/1985
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Tố Hữu
Lĩnh vực Tài chính nhà nước

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 108-CT

Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 1985

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC THANH TOÁN CÁC KHOẢN NHÀ NƯỚC VAY DÂN TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP, CHỐNG MỸ

Từ cuối năm 1979 đến nay, căn cứ Thông tư số 21-TC/HCVX ngày 1-12-1979 của Bộ Tài chính, các địa phương đã tiến hành thanh toán các khoản Nhà nước vay dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Đây là một vấn đề rất phức tạp, việc hướng dẫn lại chưa rõ ràng, các địa phương gặp nhiều lúng túng. Một số địa phương đã thanh toán cả những khoản dân đóng góp để làm nghĩa vụ công dân, những khoản lạc quyên do chính quyền, đoàn thể ở cơ sở tự tổ chức để ủng hộ kháng chiến, uý lạo bộ đội. Nhiều địa phương khoán trắng cho ban thanh toán nợ dân và đã để xảy ra những sự việc lạm dụng, thanh toán tràn lan.

Để sớm kết thúc việc thanh toán các khoản Nhà nước vay dân trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, góp phần phục vụ cuộc vận động nhân dân mua công trái xây dựng Tổ quốc, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nói rõ thêm một số điểm dưới đây:

1. Nhà nước chỉ thanh toán những khoản mà các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vay dân để giải quyết nhu cầu chi tiêu cần thiết của Nhà nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đó là những khoản mà người cho vay và cơ quan nhận vay đều ý thức rằng sẽ được trả và phải hoàn trả. Cụ thể là những khoản sau đây:

a) Công phiếu kháng chiến, phát hành trong các năm 1948, 1949, 1950, 1951, 1952.

b) Công trái quốc gia, phát hành năm 1951.

c) Công thải Nam-Bộ, phát hành năm 1947, 1958.

d) Công phiếu nuôi quân phát hành năm 1964.

e) Những khoản vay khác (tiền hoặc lương thực) do các cơ quan chính quyền từ cấp huyện trở lên vay theo lệnh của cấp trên để mua sắm vũ khí, nuôi quân đánh giặc.

Các khoản đóng góp trong phạm vi nghĩa vụ công dân và các khoản quyên góp mang tính chất ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến không thuộc những khoản Nhà nước vay dân.

2. Người cho vay (hoặc thừa kế hợp pháp) cộng tác với địch hoặc bị quy đúng là địa chủ cường hào gian ác trong cải cách ruộng đất hoặc can tội đang bị tước quyền công dân, đều không được hoàn trả bất kỳ khoản nào ghi ở điểm 1.

3. Thể thức thanh toán phải đơn giản, thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân. Phải căn cứ vào chứng từ gốc về số Nhà nước đã vay và giấy của Uỷ ban nhân dân phường, xã nơi cư trú xác nhận người cho vay (hoặc người thừa kế hợp pháp) không thuộc các đối tượng nói ở điểm 2.

Trường hợp thật đặc biệt do thiên tai, địch hoạ mà người cho vay bị mất chứng từ gốc thì:

a) Đơn xin thanh toán của đương sự phải có hai cán bộ đương chức (hoặc đã nghỉ hưu) từ cấp xã trở lên biết rõ sự việc chứng nhận. Những người chứng nhận phải cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại cho công quỹ nếu chứng nhận sai sự thật.

b) Uỷ ban nhân dân quận, huyện đề nghị và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương xét quyết định, cho thanh toán những khoản Nhà nước vay của dân từ 50000 đồng trở xuống. Đối với những khoản trên 50000 đồng, trước khi quyết định, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu phải được sự thoả thuận của Bộ Tài chính. 4. Bộ Tài chính hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thanh toán các khoản Nhà nước vay dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho xong trong năm 1985.

 

 

Tố Hữu

(Đã ký)