Chỉ thị 18/BYT/CT năm 1986 về nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong tình hình hiện nay do Bộ Y tế ban hành
Số hiệu | 18/BYT/CT |
Ngày ban hành | 11/09/1986 |
Ngày có hiệu lực | 26/09/1986 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Bộ Y tế |
Người ký | Đặng Hồi Xuân |
Lĩnh vực | Thể thao - Y tế |
BỘ
Y TẾ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 18/BYT/CT |
Hà Nội, ngày 11 tháng 9 năm 1986 |
2. Thái độ đối xử với người bệnh phải hoà nhã, tôn trọng, kiên trì giải thích những vướng mắc của bệnh nhân. Không được cửa quyền, cáu gắt hoặc thờ ơ, coi thường người bệnh và người nhà bệnh nhân.
3. Cấm các hiện tượng hối lộ, đút lót, móc ngoặc, gợi ý để người nhà bệnh nhân tổ chức chiêu đãi trước khi nhận hay làm các thủ thuật cho bệnh nhân.
4. Cấm uống rượu trong giờ làm việc, cấm hút thuốc trong khi làm chuyên môn kỹ thuật, khi khám bệnh, khi cấp phát thuốc.
5. Phải bảo đảm an toàn điều trị không để xảy ra tai biến gây tử vong, tàn phế cho bệnh nhân do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc không thực hiện nghiêm chỉnh chức trách chế độ chuyên môn.
- Tính 10% số giường nội trú thành giường ngoại trú (kinh phí 1 giường nội trú chuyển thành 3 giường ngoại trú).
Những bệnh nhân chữa ngoại trú phải bảo đảm đúng quy định; có hồ sơ bệnh án, có kế hoạch điều trị, thầy thuốc theo dõi định kỳ, có ghi theo dõi và chỉ định vào bệnh lịch, có tổng kết bệnh án và đánh giá kết quả điều trị.
- Hết sức coi trọng điều trị ngoại trú bằng các phương pháp phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, xoa bóp, châm cứu, bấm huyệt...
2. Thầy thuốc khám bệnh, cho đơn thuốc sử dụng trong vòng 5 ngày, chỉ sử dụng thuốc thiết yếu do Bộ Y tế ban hành theo khả năng hiện có của hiệu thuốc thông báo, cho thuốc điều trị bệnh chính, nếu cần thiết chỉ cho 1 loại thuốc hỗ trợ tăng lực.
3. Tổ chức tốt việc phục vụ đối với những người có tuổi trong diện chính sách hoặc cán bộ hưu trí:
- Cần có bàn khám riêng tại các phòng khám.
- Có kế hoạch phân công y, bác sĩ có trách nhiệm điều trị ngoại trú tại nhà cho một số đối tượng và địa điểm nhất định.
- Các bệnh viện tuyến tỉnh, thành cần tổ chức đơn nguyên điều trị riêng cho các đối tượng trên, trong khoa cán bộ.
4. Các bệnh viện miền núi, các phòng khám đa khoa khu vực, ngoài việc tăng cường khám bệnh cho nhân dân trong khu vực, cần tăng cường công tác ngoại viện, tổ chức những đội khám, chữa ngoại trú tại nhà theo từng thời gian và mô hình bệnh tật của địa phương.
5. Khi bệnh nhân đang trong tình trạng cấp cứu đến bất kỳ cơ sở khám, chữa bệnh nào, cũng phải khám và xử trí ngay, khi bệnh nhân hết nguy kịch mới được chuyển theo tuyến.
2. Quản lý chặt chẽ thuốc trong chế độ trợ cấp theo Quyết định số 72-CT ngày 25-3-1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
3. Nhân viên y tế khi chữa bệnh ngoại trú phải bảo đảm thủ tục quy định (như điểm 1, phần II trong Chỉ thị này).
4. Xí nghiệp liên hợp dược có kế hoạch tổ chức quầy thuốc tại các cơ sở khám, chữa bệnh để phục vụ bệnh nhân đến khám bệnh được mua thêm các loại thuốc hỗ trợ, hoặc các bệnh nhân không thuộc diện được cấp thuốc, không phải đi xa. Các hiệu thuốc tỉnh và huyện cần tổ chức sản xuất túi băng rốn vô trùng để bán cho các xã và nhân dân đề phòng nhiễm trùng uốn ván rốn sơ sinh.
5. Các bệnh viện đều phải tự pha chế Oresol, hoá chất chủ yếu sẽ do Liên hiệp các xí nghiệp dược cung cấp. Loại túi Oresol đóng sẵn chỉ dành sử dụng cho tuyến y tế cơ sở.
6. Các viện có giường bệnh, bệnh viện, nhà điều dưỡng, nhà hộ sinh phải bảo đảm chế độ ăn bệnh lý và nước uống cho bệnh nhân. Thực hiện tốt việc tổ chức phục vụ bệnh nhân ăn uống hàng ngày theo mức tiền ăn quy định.