Chỉ thị 07/2009/CT-UBND tăng cường biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm của thành phố Cần Thơ
Số hiệu | 07/2009/CT-UBND |
Ngày ban hành | 20/03/2009 |
Ngày có hiệu lực | 30/03/2009 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Thành phố Cần Thơ |
Người ký | Trần Thanh Mẫn |
Lĩnh vực | Văn hóa - Xã hội |
ỦY BAN NHÂN
DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 07/2009/CT-UBND |
Cần Thơ, ngày 20 tháng 3 năm 2009 |
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
Những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Bộ Công an và trực tiếp là Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, lực lượng Công an thành phố Cần Thơ đã phối hợp tốt với các cấp, các ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp, kế hoạch tấn công trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, tình hình phạm pháp hình sự có chiều hướng giảm, nhất là từ năm 2006 đến nay, cụ thể: (năm 2006: giảm 20 vụ, năm 2007: giảm 35 vụ, năm 2008: giảm 7 vụ), các tệ nạn xã hội được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố, phục vụ tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp; một số tội phạm hình sự như: cướp tài sản, giết người, hiếp dâm trẻ em, cố ý gây thương tích, đặc biệt là tội phạm trộm cắp, cướp giật trên đường phố chưa giảm; tình trạng các băng nhóm lưu manh, côn đồ, hoạt động theo kiểu xã hội đen, đòi nợ thuê, bảo kê, thanh toán, trả thù lẫn nhau, tụ tập gây rối trật tự công cộng và tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc, số đề có lúc, có nơi chưa được giải quyết căn cơ, triệt để, gây bức xúc trong nhân dân. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do công tác phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức; sự tham gia phối hợp của các cấp, các ngành còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao; Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” chậm đổi mới nội dung, biện pháp nên chưa thu hút được đông đảo quần chúng tham gia; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế; công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, đối tượng còn yếu, số đối tượng nghiện ma túy, đặc xá, tù tha về, thanh thiếu niên bỏ nhà đi lang thang chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ; số đối tượng truy nã hình sự, đối tượng ma túy ở ngoài xã hội còn nhiều… tiềm ẩn những bất ổn về trật tự xã hội.
Nhằm tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố trong năm 2009 và những năm tiếp theo, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ yêu cầu giám đốc sở, thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể thành phố và Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện chỉ đạo thực hiện tốt những nội dung công tác sau:
1. Các sở, ban, ngành thành phố, cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện có kế hoạch phối hợp với các ngành chức năng và lực lượng Công an tấn công trấn áp mạnh mẽ các loại tội phạm và tệ nạn xã hội tại đơn vị, địa phương mình. Xác định đây là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, phải gắn công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội với các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đặc biệt phải nêu cao vai trò, trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, các ngành, đoàn thể ở cơ sở để tham gia toàn diện, sâu rộng vào công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm và tệ nạn xã hội.
2. Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình Quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010; Chỉ thị số 16/2007/CT-TTg ngày 27 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ trẻ em; Quyết định số 156/2007/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2010.
Tập trung thực hiện 4 đề án của Chương trình là: “Phát động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”; “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự”; “Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm và tội phạm có tính quốc tế”; “Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em; tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên”.
Tổ chức triển khai thực hiện tốt Quyết định số 165/2008/QĐ-TTg ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26 tháng 3 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
3. Thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo tấn công phòng, chống tội phạm các quận, huyện, xã, phường, thị trấn, trong đó đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, xã, phường, thị trấn làm Trưởng ban; Công an, Quân sự làm Phó ban; Tài chính, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các ngành, đoàn thể có liên quan làm thành viên. Ban Chỉ đạo có kế hoạch cụ thể hóa từng mặt công tác; các ban, ngành, đoàn thể có chương trình hành động từ quận, huyện đến tận cơ sở, tiến hành triển khai trong nội bộ Đảng, Chính quyền, đoàn thể và ra tận quần chúng nhân dân, làm cho mọi người thấy được nhiệm vụ phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân dưới sự chỉ đạo của cấp Ủy và quản lý điều hành của chính quyền các cấp.
Mỗi địa phương chọn 01 địa bàn làm điểm, phân công thành viên trong Ban Chỉ đạo xuống chỉ đạo từng xã, phường, thị trấn, ấp, khu vực; tổ chức sơ, tổng kết rút ra những kinh nghiệm hay, cách làm mới để nhân rộng và phổ biến cho các địa phương khác học tập.
4. Tăng cường phát động sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; tập trung đổi mới các hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia đấu tranh, phòng ngừa và phát hiện tố giác tội phạm; tiếp tục xây dựng, nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là mô hình “3 không” (không tội phạm, không ma túy, không mại dâm) gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Thường xuyên phổ biến các phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của bọn tội phạm, công khai hóa hành vi vi phạm pháp luật của các loại đối tượng tệ nạn xã hội để người dân nâng cao ý thức tự cảnh giác trong quản lý, bảo vệ tài sản, bảo vệ tính mạng và sức khỏe của mình và mọi người, không tạo sơ hở để bọn tội phạm lợi dụng gây án. Mỗi gia đình phải có cam kết không để con, em và người thân vi phạm pháp luật; cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công nhân - viên chức phải tiêu biểu gương mẫu thực hiện công tác này; nếu gia đình cán bộ, đảng viên để con em vi phạm pháp luật sẽ không được xét khen thưởng các hình thức trong năm.
5. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác tuần tra (sử dụng lực lượng quần chúng, nhân dân để tuần tra canh gác, tấn công phòng, chống tội phạm):
a) Vận động người dân trong độ tuổi từ 18 - 55 tự nguyện tham gia vào các tổ, đội tuần tra nhân dân, với phương châm “Lực lượng tại chỗ, phương tiện, hậu cần tại chỗ và tuần tra giữ gìn an ninh trật tự tại chỗ”.
b) Mỗi ấp, khu vực phải có 05 tổ hoặc đội tuần tra nhân dân trở lên với quân số phù hợp để luân phiên tuần tra khép kín địa bàn, có kế hoạch và phương án tuần tra hàng đêm, chú ý tuần tra vào thời điểm tội phạm thường hoạt động để phát hiện bắt quả tang, xử lý kịp thời.
c) Lực lượng Công an, Quân sự xã, phường, thị trấn hướng dẫn, tập huấn về nghiệp vụ; lực lượng Dân quân tự vệ, Bảo vệ dân phố, Dân phòng làm nòng cốt trong công tác tuần tra nhân dân.
d) Cần bố trí lực lượng chặt chẽ, chu đáo và tổ chức thực hiện nghiêm túc đảm bảo chất lượng, có sơ kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác tuần tra, ở ấp, khu vực 07 ngày sơ kết một lần; xã, phường, thị trấn 15 ngày sơ kết một lần.
đ) Lực lượng Công an, Quân sự từ quận, huyện đến xã, phường, thị trấn thành lập tổ, đảm bảo trực 24 giờ/24 giờ, cơ động chiến đấu tuần tra những nơi phức tạp, trọng điểm, sẵn sàng ứng phó chi viện, trấn áp các loại tội phạm theo yêu cầu của quần chúng và lực lượng tuần tra khu vực, ấp.
6. Ủy ban nhân dân các quận, huyện chỉ đạo lực lượng Công an, Quân sự kết hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, các ngành, đoàn thể tiến hành khảo sát các điểm đen phức tạp về an ninh trật tự, nhất là nơi thường xảy ra tội phạm trộm cắp, cướp giật để xây dựng các chốt gác phục vụ công tác tấn công phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội tại địa bàn. Xác định rõ có bao nhiêu điểm đen cần phải lập chốt canh gác, kể cả điểm đen về tai nạn giao thông; địa điểm xây dựng, diện tích mỗi chốt, thiết kế xây dựng như thế nào, kinh phí bao nhiêu, thời gian xây dựng và hoàn thành... Lực lượng tham gia chịu trách nhiệm xây dựng trình Ủy ban nhân dân có văn bản, quy định phân công tổ chức thực hiện.
Sau khi có chốt gác, lực lượng Công an, Quân sự chịu trách nhiệm tổ chức lực lượng xuống các chốt hoạt động kết hợp thực hiện tất cả các mặt công tác nhằm triệt xóa các điểm đen, ổn định tình hình, sau đó giao lại cho lực lượng tại chỗ quản lý, không để tội phạm hoạt động trở lại.
7. Về kinh phí xây dựng chốt gác và kinh phí chi bồi dưỡng cho lực lượng tuần tra được sử dụng từ 02 nguồn:
- Kinh phí ngân sách cấp cho địa phương.
- Vận động các nhà hảo tâm, doanh nghiệp tự nguyện đóng góp xây dựng chốt gác và chi bồi dưỡng cho lực lượng tuần tra như huyện Thốt Nốt (nay là quận Thốt Nốt), huyện Cờ Đỏ, huyện Phong Điền đã làm. Công an, Quân sự, các ngành đề xuất chi tiêu, biện pháp tài chính, phải lập kế hoạch dự trù chi xuất, quyết toán theo quy định, không để tình trạng tự thu, tự chi sinh ra tiêu cực, vi phạm quy định Nhà nước.
8. Công an thành phố chỉ đạo lực lượng Công an các cấp tiếp tục tổng rà soát các loại đối tượng hình sự, kinh tế, ma túy và tệ nạn xã hội, chú ý đối tượng tù tha về, đặc xá, cướp giật, trộm cắp tài sản, những tên có tiền án, tiền sự cướp giật, trộm cắp chuyên nghiệp. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ tiến hành rà soát từng gia đình, từng người, lên danh sách, lập lý lịch và chụp ảnh từng đối tượng lập hồ sơ lưu, thông qua cấp Ủy, chính quyền, đoàn thể, khu vực, ấp đồng ý ký vào danh sách, qua đó phân loại và có biện pháp xử lý, quản lý như: bắt giam, truy tố, lập án đấu tranh, lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, các trung tâm cai nghiện, cơ sở chữa bệnh và cai nghiện tại cộng đồng; riêng số đối tượng bị công khai hóa trước dân, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, cho làm cam kết không tái phạm, sau đó giao lại các ban, ngành, đoàn thể quản lý, theo dõi, giúp đỡ.
Mở các cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, tập trung đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả các băng, ổ, nhóm tội phạm, các đối tượng hình sự, ma túy, tội phạm cướp giật, trộm cắp chuyên nghiệp, các đường dây tội phạm hoạt động lưu động, liên tuyến, liên tỉnh, các đường dây vận chuyển, tụ điểm tàng trữ, mua bán, tổ chức sử dụng ma túy trái phép; số thanh thiếu niên hư hỏng tụ tập thành băng nhóm có dao lê, mã tấu, hoạt động theo kiểu “xã hội đen”…, xử lý triệt để các băng nhóm tụ tập gây mất an ninh trật tự. Khi xảy ra những vụ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, lực lượng Công an phải có mặt ngay tại hiện trường, tiến hành điều tra xử lý dứt điểm theo quy định của pháp luật, chấm dứt tình trạng tội phạm xảy ra, dân đến báo nhưng Công an không giải quyết, để tội phạm lộng hành gây án, làm mất lòng tin của nhân dân.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về trật tự xã hội, nhất là các mặt công tác quản lý nhân dân, hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, quản lý các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động của các cơ sở kinh doanh, dịch vụ có điều kiện như: khách sạn, nhà trọ, cơ sở in ấn, photocopy, vũ trường, karaoke…, không để bọn tội phạm và các phần tử xấu lợi dụng những nơi này ẩn náu hoạt động. Tiếp tục vận động nhân dân thu gom, giao nộp vũ khí, vật liệu nổ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các vụ buôn bán vũ khí, vật liệu nổ trên địa bàn, không để xảy ra tình trạng tội phạm dùng vũ khí gây án.
Tập trung xây dựng lực lượng Công an cơ sở, bổ
sung Cảnh sát khu vực đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, đối với những đồng
chí không có năng lực, có nhiều khuyết điểm sai phạm cương quyết điều chuyển,
đưa những đồng chí có năng lực, trình độ, được quần chúng tín nhiệm vào phụ
trách Công an xã, phường, thị trấn, khu vực để làm nòng cốt cho phong trào.
Tiếp tục tổ chức các diễn đàn Công an đối thoại và lắng nghe ý kiến đóng góp
của nhân dân để trả lời những băn khoăn, thắc mắc của nhân dân, đồng thời
để nhân dân đóng góp ý kiến về những sai sót, khuyết điểm của lực lượng Công an,
từ đó củng cố, xây dựng lực lượng Công an nhân dân ngày càng trong sạch, vững
mạnh.
9. Giám đốc sở, thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể thành phố và Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện phải có kế hoạch chỉ đạo cụ thể cho cán bộ, Đảng viên, đoàn viên, hội viên, các ngành, đoàn thể chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, giáo dục từng đối tượng do lực lượng Công an lập danh sách, bàn giao; hàng tháng phải có kiểm tra, nếu cán bộ nào để đối tượng vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước cấp Ủy chi bộ, cán bộ nào quản lý giáo dục tốt đối tượng phục thiện, có việc làm ổn định, không vi phạm pháp luật thì đề nghị biểu dương khen thưởng kịp thời, nhân điển hình tiên tiến, thông báo cho đơn vị và địa phương học tập; đồng thời làm tốt công tác cảm hóa, giúp đỡ người được đặc xá, mãn hạn tù, người phạm tội tại gia đình và cộng đồng, nhất là giới thiệu công ăn việc làm ổn định cho họ, đối với những đối tượng hoàn lương nên vận động tham gia vào công tác giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương, có kiểm tra, theo dõi và lấy đó làm gương để giáo dục đối tượng chậm tiến khác.