Chỉ thị 01/2005/CT-BTP về thực hiện nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp năm 2005 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 01/2005/CT-BTP
Ngày ban hành 19/01/2005
Ngày có hiệu lực 15/02/2005
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Uông Chu Lưu
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Thủ tục Tố tụng

BỘ TƯ PHÁP
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01/2005/CT-BTP

Hà Nội, ngày 19 tháng 01 năm 2005 

 

CHỈ THỊ

VỀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2005

Năm 2005 là năm có nhiều ngày kỷ niệm mang ý nghĩa lịch sử trọng đại của đất nước và của ngành Tư pháp: kỷ niệm 75 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 60 năm thành lập nước Cộng hòa xã Hội chủ nghĩa Việt Nam, 30 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và 60 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp. Đây cũng là năm có vai trò quyết định trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội trong Kế hoạch 5 năm (2001- 2005).

Để phát huy những thành tích đã đạt được trong năm 2004, khắc phục tồn tại, hạn chế, đ­ưa công tác Tư pháp tiếp tục có những bước phát triển mới, sự chuyển biến căn bản và đồng bộ trên tất cả các mặt công tác, ở tất cả các cấp, các cơ quan, đơn vị trong ngành; đặc biệt là phải đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước, công cuộc cải cách hành chính, cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ thị về thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2005 như sau:

I. CÁC NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM

1. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế; nâng cao chất lượng, đảm bảo tiến độ soạn thảo, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

Đây là công tác quan trọng hàng đầu của ngành Tư pháp trong năm 2005, có khối lượng công việc rất lớn và đòi hỏi cao về chất lượng, vì vậy phải dành ưu tiên về thời gian, công sức và kinh phí bảo đảm hoàn thành đúng thời hạn và chất lượng các đề án, dự thảo văn bản trong Ch­ương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005, Ch­ương trình công tác của Chính phủ và kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành, chính quyền địa ph­ương.

Các đơn chức năng của Bộ Tư pháp khẩn tr­ương hoàn thành các đề án thuộc Ch­ương trình đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành vãn bản quy phạm pháp luật theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 của Thủ Tướng Chính phủ. Trong quý I năm 2005, Hội đồng khoa học Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng và trình Bộ trưởng phê duyệt Đề án đổi mới căn bản cách thức tổ chức thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định văn bản. Trong việc soạn thảo, thẩm định văn bản phải huy động được sự tham gia có hiệu quả của các chuyên gia, các cán bộ khoa học và hoạt động thực tiễn. Chấm dứt tình trạng để quá hạn việc thẩm lệnh văn bản quy phạm pháp luật.

Văn phòng Bộ chủ trì phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch soạn thảo các đề án, văn bản năm 2005, trong đó xác định rõ tiến độ, phân công cụ thể trách nhiệm của từng dợn vị trình Bộ trưởng phê duyệt trước ngày 05 tháng 02 năm 2005 để triển khai thực hiện.

Các đơn vị thuộc Bộ theo trách nhiệm được phân công tập trung giúp các Ban soạn thảo hoàn chỉnh để trình đúng tiến độ các dự thảo vãn bản liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của ngành như Bộ luật Thi hành án, Luật Đăng ký bất động sản, Pháp lệnh Công chứng, Pháp lệnh Lý lịch Tư pháp, Pháp lệnh Trợ giúp pháp lý, các nghị định sửa đổi về đăng ký hộ tịch, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và một số văn bản khác. Vụ Pháp luật dân sự kinh tế phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan tiếp thu ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) để hoàn chỉnh, trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp thử bảy (tháng 5/2005).

Vụ Pháp luật quốc tế, các đơn vị khác thuộc Bộ trong phạm vi trách nhiệm của mình tham gia có hiệu quả vào công tác xây dựng văn bản pháp luật thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam và phục vụ việc gia nhập Tổ chức th­ương mại thế giới (WTO); nâng cao chất lượng tư vấn, hỗ trợ về các vấn đề pháp lý liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, hướng dẫn nghiệp vụ, kịp thời giải quyết các vướng mắc của dịa ph­ương trong quá trình rà soát vãn bản quy phạm pháp luật phục vụ hội nhập.

Các tổ chức pháp chế Bộ, ngành phải thực sự phát huy vai trò, trách nhiệm tham mưu, giúp lãnh đạo cùng cấp hoàn thành đúng thời hạn, có chất lượng các đề án, văn bản quy phạm pháp luật được giao chủ trì soạn thảo, thẩm định, tham gia ý kiến. Các tổ chức pháp chế, cán bộ pháp chế doanh nghiệp nhà nước thông qua hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp cần chú trọng phát hiện và đề xuất kiến nghị sửa đổi, bãi bỏ hoặc thay thế những văn bản, quy định thiếu tính khả thi.

Các Sở Tư pháp chủ động tham mưu, giúp chính quyền cùng cấp tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), triển khai thi hành Luật Ban hành vãn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân; có ph­ương án kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng, thẩm định văn bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo quy định của Luật (mới); hoàn thành việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật của địa ph­ương với các yêu cầu của WTO theo chỉ đạo của Bộ Tư pháp và kế hoạch của Ủy ban nhân dân cùng cấp.

Trong năm 2005, toàn ngành tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý vãn bản quy phạm pháp luật. Cục kiểm tra văn bản, các tổ chức pháp chế Bộ, ngành, cơ quan Tư pháp địa ph­ương khẩn tr­ương xây dựng, trình lãnh đạo phê duyệt kế hoạch kiểm tra để triển khai ngay từ đầu năm với ph­ương châm phối hợp tốt công tác tự kiểm tra ở từng ngành, từng cấp với hoạt động kiểm tra theo thẩm quyền để không bỏ sót văn bản. Chấn chỉnh việc gửi vãn bản mới ban hành để kiểm tra theo quy định, đồng thời tăng cường hoạt động kiểm tra theo chuyên đề, địa bàn, trong đó chú trọng những Bộ, ngành, địa ph­ương có số lượng vãn bản ban hành lớn hoặc những lĩnh vực trực tiếp liên quan nhiều đến đời sống sinh hoạt của nhân dân như đất đai, xây dựng, thuế, phí - lệ phí, các quy định về thủ tục hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, v.v. Bên cạnh đó. tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động: hoàn thiện thể chế về công tác kiểm tra, nhất là ở các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; kiện toàn tổ chức, tăng cường biên chế chuyên trách, mở rộng đội ngũ cộng tác viên; tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ kiểm tra, bố trí kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác theo quy định đáp ứng yêu cầu công tác kiểm tra văn bản.

2. Tăng cường hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân

Nhiệm vụ trọng tâm về phổ biến giáo dục pháp luật năm 2005 là tập trung đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 32/CT-'TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ­ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; triển khai giai đoạn I Ch­ương trình hành động quốc gia phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 và tiếp tục triển khai có hiệu quả 4 Đề án thuộc Ch­ương trình phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ giai đoạn 2003 - 2007.

Trong quý I năm 2005, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật chủ trì phối hợp với cán đơn vị có liên quan xây dựng Kế hoạch triển khai Ch­ương trình hành động quốc gia phổ biến giáo dục pháp luật trình Bộ trưởng phê duyệt. Các hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật cần tập trung trước hết cho cấp cơ sở, chú trọng địa bàn có nhiều khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo, các lĩnh vực đang có nhiều bức xúc như trật tự an toàn giao thông, quản lý đất đai, cải cách hành chính, chống tham nhũng, lãng phí,... Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật phù hợp với từng loại đối tượng, từng loại địa bàn.

Công tác phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, trong đó Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế Bộ, ngành, cơ quan Tư pháp địa ph­ương cần làm tốt vai trò đầu mối, nòng cốt trong Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật các cấp để giúp Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa ph­ương chỉ đạo, tổ chức công tác này. Trên cơ sở hướng dẫn của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ và Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế Bộ, ngành tham mưu cho lãnh đạo tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ. ngành mình; các cơ quan Tư pháp địa ph­ương tham mưu cho Ủy ban nhân dân cùng cấp phổ biến các văn bản pháp luật mới ở địa ph­ương.

Các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp tiếp tục củng cố, xây dựng các tổ hòa giải ở thôn. xóm, ấp, bản, làng, khu dân c­ư, phấn đấu tăng số việc hỏa giải thành đạt trên 80%. Khai thác có hiệu quả tủ sách pháp luật xã, phư­ờng, thị trấn; tiếp tục xây dựng tủ sách pháp luật ở các trường học,cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, doanh nghiệp, phấn đấu đến hết năm 2005 có 60% các tổ chức, cơ sở này có tủ sách pháp luật. Tổ chức tốt Hội thi Hòa giải viên giỏi ở các cấp, tiến tới Hội thi hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thú 2 trong quý III năm 2005.

Tăng cường quản lý công tác báo chí - xuất bản trong ngành Tư pháp. Kiện toàn tổ chức, các bộ các cơ quan báo chí - xuất bản; nâng cao chất lượng tin, bài viết của các báo, tạp chí, đặc san, bản tin của ngành, chất lượng ấn phẩm của Nhà xuất bản Tư pháp, hướng các hoạt động này phục vụ tích cực các nhiệm vụ trọng tâm cải cách Tư pháp và nhiệm vụ chính trị của ngành.

Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng Quy chế quản lý báo chí - xuất bản và Kế hoạch định hướng phát triển công tác báo chí - xuất bản ngành Tư pháp từ năm 2005 đến năm 2010 trình Bộ trưởng ban hành trong quý II năm 2005.

3. Tiếp tục tạo chuyển biến căn bản trong công tác thi hành án dân sự theo các giải pháp Chính phủ đã trình tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XI

Trong quý 1 năm 2005, Cục Thi hành án dân sự trình Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng ban hành đầy đủ các vãn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thi hành án dán sự năm 2004 và các nghị định của Chính phủ về công tác thi hành án dân sự; xây dựng Quy chế phối hợp với các ngành để xử lý các vấn để vướng mắc trong quá trình áp dụng, thực thi pháp luật về thi hành án dân sự; tăng cường công tác chỉ đạo nghiệp vụ, khắc phục ngay tình trạng không giải quyết hoặc trả lời chậm trễ, thiếu thống nhất yêu cầu kiến nghị của địa ph­ương liên quan đến công tác thi hành án. Năm 2005 phải là năm tháo gỡ được cơ bản các khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ chế trong lĩnh vực thi hành án dân sự, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả thi hành án.

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Giám đốc các Sở Tư pháp, Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự địa ph­ương tập trung chỉ đạo sát sao việc tổ chức thi hành án, bảo đảm tổ chức thi hành đúng nội dung bản án đã tuyên và đúng quy trình, nghiệp vụ thi hành án, phấn đấu thi hành xong hoàn toàn 80% số vụ việc và 5O% về tiền, tài sản đối với số vụ việc có điều kiện thi hành; hoàn thành việc rà soát, phân loại số án không có điều kiện thi hành trong quý 1 năm 2005 để phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa ân nhân dân làm thủ tục xem xét miễn, giảm thi hành án theo quy định. ở từng địa ph­ương, Giám đốc Sở Tư pháp chỉ đạo Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện miễn, giảm thi hành án và giám sát thực hiện, phấn đấu đến hết quý III năm 2005 thực hiện miễn, giảm xong ít nhất 50% số vụ việc có đủ điều kiện miễn, giảm.

Tiếp tục phát huy vai trò tổ chức, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự ở địa ph­ương của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở cơ sở, thông qua Ban chỉ đạo thi hành án và cộng đồng dân c­ư để giáo dục, kiên trì thuyết phục người phải thi hành án tôn trọng, tự nguyện thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đồng thời kiên quyết tổ chức cưỡng chế thi hành đối với các trường hợp cố tình dây dư­a, chây ỳ, chống đối. Tập trung chỉ đạo thi hành dứt điểm các vụ việc có điều kiện thi bành nhưng còn tồn đọng do có vướng mắc hoặc khiếu nại bức xúc, kéo dài; trong năm 2005 chọn một số địa ph­ương để xây dựng đề án và tổ chức thi hành cơ bản số án tồn đọng có điều kiện thi hành. Quý II năm 2005, tiến hành sơ kết việc chuyển giao số vụ việc có giá trị dưới 500.000 đồng cho Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp đôn đốc thi hành.

Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự đề cao trách nhiệm tổ chức tiếp dân và giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo về thi hành án ngay tại nơi phát sinh theo đúng tinh thần Chỉ thị số 36/2004/CT-TTG ngày 27/10/2004 của Thủ Tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nghiêm Quyết định số 593/QĐ-BTP ngày 08/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy định về tiếp nhận và xử lý thông tin qua đường dây nóng về công tác thi hành án dân sự.

Giám đốc Sở Tư pháp chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về việc tổ chức tuyển dụng, bổ sung đủ biên chế đã phân bổ cho các cơ quan thi hành án dân sự ở địa ph­ương mình; chậm nhất đến cuối quý II năm 2005 khắc phục xong tình trạng thiếu Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc cơ quan thi hành án chỉ có một chấp hành viên.

Phổ biến các bài học kinh nghiệm. mô hình tốt trong công tác thi hành án dân sự, biểu dương và nhân rộng các điển hình tiên tiến; gắn kết việc xem xét, đánh giá thành tích thi đua, khen thưởng cuối năm với việc hoàn thành các chỉ tiêu về thi hành án. Chú trọng công tác giáo dục, trau dồi phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ thi hành án; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm trong công tác thi hành án; xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân trong hoạt động thi hành án dân sự.

[...]