BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 24/BC-BTP
|
Hà Nội, ngày 12
tháng 01 năm 2024
|
BÁO CÁO
TỔNG
HỢP KẾT QUẢ TỔNG KẾT THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH NĂM 2015 CỦA ỦY
BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Thực hiện Văn bản số 6996/VPCP-V.I ngày 17/10/2022
của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thực
hiện kiến nghị sau giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, theo đó Chính phủ
giao Bộ Tư pháp tổng hợp kết quả tổng kết thi hành Luật Tố tụng hành chính
(TTHC) năm 2015 liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Ủy
ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Tư pháp đã có
Công văn số 2997/BTP-TCTHADS ngày 14/7/2023 gửi UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đề nghị báo cáo kết quả tổng kết Luật TTHC năm 2015. Đến hết
ngày 05/10/2023, có 58/63 địa phương báo cáo kết quả tổng kết[1]. Trên cơ sở báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, Bộ Tư pháp báo cáo tổng hợp kết quả tổng kết thi hành Luật TTHC năm
2015 liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch UBND và UBND cụ thể như sau:
I. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THI HÀNH
1. Công tác chỉ đạo, tổ chức triển
khai thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015
1.1. Việc chỉ đạo, xây dựng
và tổ chức thực hiện Kế hoạch triển khai thi hành Luật Tố tụng hành chính năm
2015
Để triển khai thực hiện Luật TTHC năm 2015 đạt hiệu
quả, UBND các tỉnh: An Giang, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Thuận, Cà Mau,
Cao Bằng, Cần Thơ, Đắk Lắk, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hà Giang, Hà Nam, Hải
Dương, Hải Phòng, Khánh Hòa, Kiên Giang, Lai Châu, Lâm Đồng, Long An, Nghệ An,
Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng,
Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long đã
ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật TTHC năm 2015. Các địa phương còn lại
đều có văn bản chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan kịp thời quán triệt triển
khai Luật TTHC năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ
quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm
đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án, trong đó, chú trọng
chỉ đạo nâng cao chất lượng, bảo đảm việc ban hành quyết định hành chính
(QĐHC), thực hiện hành vi hành chính (HVHC) tuân thủ đúng quy định pháp luật;
chủ động Kiểm tra, rà soát, xử lý kịp thời các sai phạm trong việc ban hành, thực
hiện QĐHC, HVHC, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu, coi công tác chấp hành pháp luật TTHC và THAHC
là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cơ quan, đơn vị...và trong quá trình triển
khai thực hiện đến nay, các địa phương tiếp tục có nhiều văn bản chỉ đạo, đôn đốc
các cơ quan, tổ chức có liên quan chấp hành nghiêm túc Luật TTHC năm 2015, Nghị
định số 71/2016/NĐ-CP và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác chấp
hành pháp luật TTHC và THAHC.
1.2. Công tác tuyên truyền,
phổ biến Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Theo báo cáo của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 325/QĐ-TTg ngày
01/3/2016 và Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 459/QĐ-BTP ngày 22/3/2016 ban
hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật TTHC năm 2015, các địa phương đã chỉ đạo
tổ chức Hội nghị quán triệt, phổ biến triển khai Luật TTHC năm 2015 với sự tham
gia của Lãnh đạo các sở, ngành, Lãnh đạo UBND cấp huyện và mở rộng đến các đối tượng
khác như thành viên Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật, phòng Tư
pháp, cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn. Ngoài ra, trong quá trình tổ chức
thực hiện, một số địa phương khác cũng đã tổ chức hội nghị tuyên truyền, bồi dưỡng
kiến thức về Luật TTHC năm 2015 mở rộng đến các thành phần khác như: tỉnh Quảng
Bình mở rộng đến các thành phần là đại diện các Ban thuộc Tỉnh ủy, các tổ chức
chính trị, xã hội và các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh; tỉnh An
Giang mở rộng đến đối tượng là các tuyên truyền viên thuộc các tổ chức công
đoàn trên địa bàn; thành phố Cần Thơ chú trọng và tổ chức tuyên truyền đến đối
tượng là Trưởng ấp, Trưởng khu, Tổ trưởng Tổ hòa giải trên địa bàn thành phố...
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng
đã chỉ đạo Sở Tư pháp (cơ quan thường trực Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật
của tỉnh) phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức cấp phát các tài liệu
tuyên truyền, phổ biến Luật TTHC năm 2015 do Bộ Tư pháp biên soạn cũng như sách
Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP của Chính phủ cho các báo cáo
viên pháp luật cấp tỉnh, cấp huyện, tuyên truyền viên pháp luật và người đứng đầu
các sở, ngành, UBND cấp huyện trên địa bàn; chỉ đạo UBND các quận, huyện Tổ chức
tuyên truyền trực tiếp đến công chức và người dân các quy định của Luật TTHC
năm 2015.
Một số địa phương như Nghệ An, định kỳ mỗi năm Tạp
chí Pháp luật và Đời sống đều xuất bản các số báo trong đó có nhiều bài viết về
nội dung liên quan đến các quy định của pháp luật về TTHC và THAHC cấp phát miễn
phí về cơ sở và số chuyên đề chuyên sâu về triển khai Luật TTHC (năm 2016) và
triển khai Nghị định số 71/2016/NĐ-CP (năm 2017), tổ chức cuộc thi tìm hiểu Bộ luật
hình sự, Bộ luật dân sự, Luật Tố tụng hành chính trên Cổng Thông tin điện tử
thu hút hơn 100.000 lượt thi. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngoài Hội đồng phổ biến
giáo dục pháp luật của tỉnh thường xuyên tổ chức tuyên truyền thì Đài phát
thanh và Truyền hình tỉnh cũng đã có 32 tin và 20 phóng sự chuyên về công tác
chấp hành pháp luật TTHC và THAHC. Tỉnh Ninh Thuận trong năm 2023 tiếp tục ban
hành Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật TTHC năm 2015 nhằm
nâng cao nhận thức cho người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước và hiểu
biết của nhân dân về các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về TTHC
và THAHC.
Ngoài ra, các địa phương còn tổ chức tuyên truyền,
phổ biến qua mô hình “Ngày pháp luật”, “Câu lạc bộ pháp luật”, qua hoạt động của
Tổ hoà giải cơ sở, hệ thống loa truyền thanh cơ sở, Đài phát thanh-Truyền hình,
tủ sách pháp luật, tờ rơi, tờ gấp, văn phòng điện tử (mạng nội bộ); hệ thống quản
lý văn bản và điều hành (VNPT-ioffice), lồng ghép với các phong trào xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư, tổ chức hội thảo, tọa đàm về pháp luật TTHC và
THAHC.
Thông qua các hình thức tuyên truyền đã giúp cán bộ,
nhân dân cập nhật, nâng cao hiểu biết, nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước nói chung và pháp luật về TTHC và THAHC nói
riêng, từ đó có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình. Đồng thời, giúp cơ quan nhà nước tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản
lý, góp phần đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.3. Công tác đôn đốc, hướng
dẫn trong quá trình triển khai thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Trên cơ sở báo cáo của các địa phương cho thấy,
trong quá trình triển khai thi hành Luật TTHC năm 2015, các địa phương đồng thời
triển khai tổ chức thi hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính
phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách
nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án, Chỉ thị số
26/CT-TTg ngày 15/11/2019 của Thủ tướng về tăng cường chấp hành pháp luật TTHC,
THAHC và các chỉ đạo của Thủ tướng về tăng cường chấp hành pháp luật TTHC và
THAHC. Ở một số địa phương Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị và văn
bản chỉ đạo thực hiện nghiêm nội dung này như Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã ban hành các Chỉ thị về tăng cường công tác THAHC[2]; UBND tỉnh Đồng Nai đã ban hành các Chỉ thị về công tác THAHC
trong các năm 2018, 2020[3]; UBND Thành phố Đà Nẵng
ban hành Chỉ thị về nâng cao chất lượng, siết chặt kỷ cương, trách nhiệm trong
thi hành công vụ, chấp hành pháp luật TTHC, THAHC[4];
UBND một số tỉnh như Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Nghệ An, Sơn La... ban hành Chỉ
thị về tăng cường công tác THADS, THAHC trên địa bàn.
Ngoài ra, UBND các tỉnh cũng đã kịp thời có các văn
bản đôn đốc, chỉ đạo chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong việc chấp
hành pháp luật TTHC trong giải quyết vụ án hành chính và thi hành các bản án,
quyết định về vụ án hành chính của Toà án; chỉ đạo việc tham mưu giải quyết kịp
thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành các bản án thuộc trách
nhiệm thi hành của địa phương. Một số địa phương như Nghệ An, Quảng Ninh, Đồng
Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Bạc Liêu, Quảng Nam, Ninh Thuận...
đã có nhiều văn bản chỉ đạo quyết liệt việc chấp hành pháp luật TTHC và THAHC,
điển hình như:
- Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Đồng Nai đã ban hành
Nghị quyết về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, THAHC, theo dõi, đôn đốc thực hiện các kết luận thanh tra, kiến nghị của
Kiểm toán... tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng về công tác THAHC trên địa
bàn tỉnh[5].
- UBND tỉnh Bạc Liêu đã ban hành một số văn bản quy
phạm pháp luật có nội dung liên quan đến việc giải quyết các khiếu kiện QĐHC,
HVHC như: Quyết định ban hành quy chế đối thoại trong giải quyết khiếu nại; Quyết
định ban hành trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thực hiện quyết định
kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế thực hiện thu hồi đất...; Quyết định cưỡng chế thi
hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai có hiệu lực thi hành trên địa bàn
tỉnh nhằm giải quyết có hiệu quả ngay từ ban đầu các khiếu nại của công dân, tổ
chức về các quyết định hành chính từ đó hạn chế phát sinh các khiếu kiện hành
chính tại Tòa án.
- UBND tỉnh Quảng Ninh thành lập Tổ giúp việc để
giúp việc cho các đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh khi được ủy quyền tham gia tố
tụng trong các vụ án hành chính, dân sự. Việc kiện toàn và duy trì hoạt động của
Tổ giúp việc được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc.
- Để tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án hành
chính đã có hiệu lực pháp luật, UBND các tỉnh: Bình Dương, Đắk Lắk, Bà Rịa -
Vũng Tàu, Lào Cai, Quảng Nam, Ninh Thuận, Nghệ An, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo
thành lập các Tổ giúp việc, Đoàn kiểm tra nhằm tham mưu cho UBND tỉnh, Thành phố
trong việc tổ chức thi hành các bản án hành chính thuộc trách nhiệm thi hành của
UBND, Chủ tịch UBND tỉnh và chỉ đạo, đôn đốc UBND, Chủ tịch UBND các quận, huyện,
thành phố trên địa bàn tổ chức thi hành các bản án hành chính đảm bảo đúng quy
định của pháp luật.
- UBND tỉnh Nghệ An ngoài các văn bản chỉ đạo về việc
tăng cường chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật TTHC và THAHC còn có
văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh khắc phục vi phạm trong công tác lưu trữ, cung cấp
thông tin liên quan đến tố tụng hành chính nhằm đảm bảo việc cung cấp hồ sơ,
tài liệu chứng cứ cho Tòa án đảm bảo kịp thời, đúng quy định.
1.4. Công tác phối hợp
trong việc triển khai thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Theo báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương cho thấy một số địa phương đã thực hiện tốt công tác phối hợp giữa
UBND các cấp với Toà án nhân dân (TAND), Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND), cơ
quan THADS và các cơ quan có liên quan trong việc triển khai thi hành Luật TTHC
năm 2015. Cụ thể:
- Tỉnh ủy Đồng Nai đã ban hành quy chế về phối hợp
giữa Ban cán sự Đảng TAND tỉnh và Ban cán sự Đảng UBND tỉnh trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo giải quyết các vụ án hành chính, dân sự trên địa bàn tỉnh.
- Ban cán sự Đảng UBND tỉnh và Ban cán sự TAND tỉnh
Hà Giang, Bình Thuận, Tuyên Quang đã ký kết và triển khai thực hiện có hiệu quả
Quy chế phối hợp về cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu, chứng cứ trong giải
quyết các vụ án hành chính. Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Điện Biên ký Quy chế phối
hợp với Ban cán sự Đảng TAND tỉnh và Ban cán sự Đảng VKSND tỉnh trong đó có nội
dung phối hợp giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính.
Ngoài ra, để phòng ngừa nguy cơ phát sinh các vụ việc
khiếu kiện hành chính, UBND tỉnh Kiên Giang phối hợp với VKSND tỉnh tổ chức hội
thảo chuyên đề về thực trạng ban hành QĐHC, thực hiện HVHC và THAHC để kịp thời
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác chấp hành pháp luật TTHC và
THAHC trên địa bàn tỉnh; UBND tỉnh Lâm Đồng có văn bản đề nghị VKSND tỉnh chỉ đạo
VKSND cấp huyện tăng cường kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình
tham gia tố tụng và tổ chức thi hành bản án hành chính; xem xét, giải quyết kịp
thời các kiến nghị, kháng nghị theo thủ tục luật định đối với các bản án, quyết
định của Toà án.
Nhiều UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp với
cơ quan THADS và các cơ quan có liên quan trong việc tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật về TTHC và THAHC; tham mưu xây dựng kế hoạch, báo cáo về
công tác chấp hành pháp luật TTHC và THAHC định kỳ, đột xuất; tháo gỡ khó khăn
vướng mắc trong việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành
chính; chỉ đạo UBND cấp huyện phối hợp chặt chẽ với cơ quan THADS và các sở,
ban ngành để phối hợp hướng dẫn hoặc báo cáo đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét,
chỉ đạo các trường hợp quá trình tổ chức thi hành án có khó khăn, vướng mắc.
2. Tình hình chấp hành Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính và thi
hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính của Chủ tịch UBND, UBND
2.1. Đánh giá thực trạng
các QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND, UBND các cấp bị khiếu kiện theo quy định của Luật
TTHC năm 2015
Theo báo cáo tổng kết của các địa phương cho thấy kể
từ thời điểm Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực đến hết ngày 31/7/2023, tổng số
QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND, UBND các cấp trên toàn quốc[6] bị khiếu kiện là 28.055 QĐHC, HVHC, trong đó, cấp tỉnh là
5.625 cấp huyện là 20.856, cấp xã là 1.574.
Trong số 28.055 QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND, UBND
các cấp bị khởi kiện có 3.132 quyết định bị Tòa án tuyên hủy một phần hoặc toàn
bộ (cấp tỉnh: 516, cấp huyện 2.472, cấp xã 144) và 508 HVHC của Chủ tịch UBND,
UBND bị Tòa án tuyên bố là trái pháp luật (cấp tỉnh 27, cấp huyện 416, cấp xã
65).
Báo cáo của các địa phương đánh giá việc ban hành
QĐHC, thực hiện HVHC của Chủ tịch UBND, UBND các cấp qua các năm ngày càng chặt
chẽ về trình tự thủ tục, thẩm quyền ban hành và đảm bảo về chất lượng. Các QĐHC
được ban hành phù hợp với từng vấn đề, cụ thể với từng đối tượng, xác định rõ
nhiệm vụ, phương thức và thời gian thực hiện. Nội dung của QĐHC đã bám sát và
giải quyết hợp lý các vấn đề thực tiễn, có tính khả thi cao, tạo sự đồng thuận
trong xã hội; ngôn ngữ, cách trình bày trong các QĐHC rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn,
chính xác, tuân thủ quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản cơ bản
đáp ứng tính hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, báo cáo tổng kết
của hầu hết các địa phương cũng nhận định tình hình khiếu kiện QĐHC, HVHC trong
những năm gần đây có chiều hướng gia tăng thể hiện ở số lượng các QĐHC, HVHC bị
khởi kiện tăng và tập trung chủ yếu ở lĩnh vực đất đai, như: quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai; quyết định giải quyết khiếu nại; quyết định thu hồi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về
việc thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyết định cưỡng chế thu hồi đất;
quyết định về việc kiểm đếm bắt buộc và hành vi không cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất...ngoài ra còn có các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng, quản lý đất đai.
Về nguyên nhân dẫn đến việc các QĐHC, HVHV bị khởi
kiện ngày càng gia tăng, theo báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, cổ một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Về phía cơ quan nhà nước:
+ Năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của một bộ
phận công chức làm công tác tham mưu ban hành các QĐHC, thực hiện HVHC còn hạn
chế, chưa nắm bắt đầy đủ hoặc chưa hiểu đúng quy định của pháp luật để ban hành
QĐHC, thực hiện HVHC giải quyết công việc của người dân. Quá trình giải quyết khiếu
nại còn lúng túng trong việc phân loại xử lý đơn và xác định cơ quan có thẩm
quyền giải quyết... dẫn đến phát sinh các khiếu kiện hành chính;
+ Người có thẩm quyền ban hành QĐHC, thực hiện HVHC
còn chưa xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan nội dung, bản chất của vụ việc
và các quy định của pháp luật dẫn đến việc ban hành QĐHC, thực hiện các HVHC có
nội dung chưa đúng pháp luật;
+ Việc kiểm tra, rà soát, đánh giá các QĐHC chưa được
thực hiện thường xuyên. Việc kiểm tra, giám sát cấp dưới trong việc thực hiện
nhiệm vụ tham mưu chưa được kịp thời;
+ Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở một số địa
phương có giai đoạn thiếu chặt chẽ dẫn đến việc tranh chấp, khiếu nại, khởi kiện.
- Về phía người dân:
Nhận thức của người bị thu hồi đất về chính sách, pháp
luật chưa thật sự đầy đủ. Tâm lý người dân muốn khiếu kiện để được quyền lợi
nhiều hơn, có trường hợp QĐHC, HVHC của các các cơ quan có thẩm quyền ban hành
có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nhưng người phải chấp hành QĐHC cố
tình trì hoãn việc chấp hành, kéo dài thời gian thi hành bằng việc sử dụng quyền
khởi kiện vụ án hành chính. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, bồi thường khi
phát sinh khiếu nại, người dân có tâm lý không tin tưởng vào nội dung giải quyết
khiếu nại của cấp dưới và gửi đơn vượt cấp lên tỉnh, Trung ương.
Ngoài các nguyên nhân kể trên, có thể thấy nguyên
nhân chính dẫn đến sự gia tăng tình trạng khiếu kiện đối với các QĐHC, đặc biệt
là các QĐHC trong lĩnh vực đất đai đó là sự phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ
đô thị hoá nhanh, các dự án phát triển kinh tế - xã hội ngày càng nhiều dẫn đến
việc thu hồi đất để thực hiện dự án diễn ra mạnh mẽ, giá đất biến động theo chiều
hướng tăng, dẫn đến phát sinh mâu thuẫn giữa người dân và nhà nước về giá bồi
thường; Chính sách đất đai có nhiều thay đổi qua các thời kỳ, nhất là chính
sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư;
- Hệ thống các quy định của pháp luật thường xuyên
thay đổi, nhất là lĩnh vực đất đai còn một số bất cập như một số chính sách
pháp luật về đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư...giá đất chưa phù hợp với
thực tế dẫn đến khó khăn cho cán bộ, công chức trong việc nắm bắt đầy đủ, chính
xác, kịp thời để áp dụng thống nhất trên thực tế;
- Có trường hợp tranh chấp dân sự liên quan đến quyền
sử dụng đất đã hết thời hiệu khởi kiện dân sự nhưng còn thời hiệu khởi kiện vụ
án hành chính nên người dân thực hiện khởi kiện vụ án hành chính;
- Cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc
phục vụ công tác xây dựng, ban hành QĐHC chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là
trong công tác đo đạc quản lý đất đai thời kỳ trước. Việc quản lý hồ sơ đất đai
do lịch sử để lại còn nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ, đồng bộ, thậm chí có lúc
còn buông lỏng quản lý.
2.2. Thực trạng chấp hành
pháp luật trong việc giải quyết vụ án hành chính. Những khó khăn, vướng mắc và
nguyên nhân
2.2.1. Kết quả chấp hành pháp luật trong việc giải
quyết vụ án hành chính.
Thực hiện Điều 55, 60 và Điều 78 Luật
TTHC năm 2015 về trách nhiệm tham gia phiên tòa, tham gia đối thoại, giải
trình và cung cấp kịp thời, đầy đủ hồ sơ, tài liệu có liên quan đến QĐHC, HVHC
bị khởi kiện. Theo báo cáo của các địa phương[7],
trong giai đoạn kể từ khi Luật TTHC năm 2015 ban hành đến nay, số trường hợp Chủ
tịch UBND (hoặc người đại diện) không tham gia phiên đối thoại là 7.963/17.808
phiên đối thoại; số vụ việc không tham gia phiên tòa là 7.815/16.080 vụ
án hành chính giải quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND, UBND.
Về cơ bản có thể thấy việc chấp hành các quy định của
Luật TTHC năm 2015 liên quan đến trách nhiệm tham gia phiên đối thoại, tham gia
phiên tòa mặc dù đã có chuyển biến, tuy nhiên về cơ bản vẫn còn nhiều địa
phương chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy định này. Theo số liệu báo cáo của
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy số trường hợp Chủ tịch
UBND (hoặc Phó Chủ tịch UBND là người được ủy quyền) ở một số địa phương như An
Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Khánh Hòa, Bình Dương, Đắk Lắk, Hải Phòng, Sóc Trăng,
Thái Nguyên, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Thành phố Hồ Chí Minh, không tham gia
phiên đối thoại hoặc phiên tòa vẫn chiếm số lượng khá lớn, việc cung cấp hồ sơ,
tài liệu có liên quan đến QĐHC bị khởi mặc dù thực hiện cơ bản đầy đủ, tuy
nhiên chưa kịp thời.
2.2.2. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình chấp
hành pháp luật TTHC
Theo báo cáo của hầu hết các địa phương, trong quá
trình chấp hành pháp luật TTHC có một số khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:
- Về phạm vi ủy quyền của người bị kiện cho người
khác tham gia tố tụng quá hẹp. Người bị kiện chỉ được phép ủy quyền cho cấp phó
của mình. Do khối lượng công việc tại địa phương rất nhiều nên hầu hết các vụ
việc người bị kiện là Chủ tịch UBND đều không thể trực tiếp tham gia phiên toà,
thậm chí người được ủy quyền là cấp phó của người đứng đầu cũng không bố trí
tham gia phiên toà, phiên đối thoại được đầy đủ.
- Quy định về thời hạn nộp văn bản nêu ý kiến của
người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 128 Luật TTHC năm 2015 quá ngắn, gây khó khăn cho
việc thực hiện. Do theo nguyên tắc quản lý hành chính thì các ý kiến và hồ sơ vụ
kiện phải giao cho cơ quan chuyên môn tham mưu, sau đó trình Lãnh đạo UBND cho
ý kiến nên mất nhiều thời gian, việc quy định trong thời hạn 10 ngày không kể
ngày lễ, ngày nghỉ người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không
kịp chuẩn bị tài liệu, ý kiến để nộp cho Toà án đúng hạn.
Ngoài ra có một số địa phương phản ánh quy định về
việc cán bộ, công chức thuộc cơ quan thanh tra, lực lượng thuộc cơ quan công an
không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền hoặc
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện đã gây khó khăn cho các
cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp do trên thực tế cơ
quan Thanh tra là cơ quan chủ trì tham mưu giúp UBND trong việc thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý nhà nước của UBND hoặc tham mưu
quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đối tượng trọng các vụ kiện hành
chính. Quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Điều 263 Luật TTHC năm 2015 là 3 năm kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật, quy định trên là quá dài, khó khăn trong việc khắc phục hậu quả
đối với những bản án đã thi hành xong.
2.2.3. Tình hình thực hiện kiến nghị của VKSND
liên quan đến việc Chủ tịch UBND (hoặc người đại diện) không tham gia phiên đối
thoại, không tham gia phiên tòa hành chính.
Theo tổng hợp từ báo cáo của các địa phương, từ thời
điểm Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực đến nay, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành 07
kiến nghị, VKSND tỉnh Bắc Giang ban hành 04 kiến nghị, VKSND tỉnh Nghệ An ban
hành 2 kiến nghị liên quan đến việc Chủ tịch UBND hoặc người được Chủ tịch UBND
ủy quyền không tham gia phiên tòa. Về cơ bản các địa phương đã thực hiện đầy đủ
kiến nghị của VKSND theo quy định của pháp luật.
2.3. Thực trạng chấp hành
pháp luật trong việc THAHC liên quan đến QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND, UBND
2.3.1. Tình hình tổ chức thi hành bản án, quyết
định của Tòa án về vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 311 Luật TTHC năm 2015
Trên cơ sở kết quả theo dõi của Bộ Tư pháp và báo
cáo hàng năm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và báo cáo kết quả theo việc thi hành các
bản án hành chính của các cơ quan thi hành án dân sự thì tổng số bản án, quyết
định của Tòa án về vụ án hành chính mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước là bên phải thi hành án từ ngày 01/10/2017 đến hết ngày
30/9/2023 là 3.335 bản án, quyết định. Trong đó, số bản án, quyết định
thuộc trách nhiệm thi hành của UBND các cấp là 2.928 bản án, quyết định
(số bản án thuộc trách nhiệm thi hành của các sở, ngành khác là 407 bản
án, quyết định). Kết quả, UBND các cấp đã thi hành xong 2.255/2.928 bản
án, quyết định, còn 712 bản án, quyết định chưa thi hành xong.
Từ kết quả trên cho thấy, số bản án, quyết định của
Tòa án về vụ án hành chính mà UBND các cấp là bên phải thi hành án chiếm số lượng
lớn nhất. Kết quả thi hành xong trên tổng số bản án, quyết định phải thi hành
cho thấy về cơ bản UBND, Chủ tịch UBND các cấp đã chấp hành việc tổ chức thi
hành các bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên đến ngày
30/9/2023 vẫn còn 712 bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
thuộc trách nhiệm thi hành của UBND các cấp chưa thi hành xong và tập trung nhiều
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
các tỉnh Đắk Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Kiên Giang, Lâm Đồng, Thanh
Hóa, Phú Yên, Lào Cai, Long An...
2.3.2. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình chấp
hành pháp luật liên quan đến thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về vụ
án hành chính:
Quá trình thực hiện quy định của pháp luật TTHC
liên quan đến việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành
chính, các địa phương phản ánh một số khó khăn, vướng mắc như:
- Việc chuyển giao bản án, quyết định của Toà án
cho cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước để thi hành án còn chậm dẫn đến có trường hợp người phải thi hành án
không xác định được bản án đã có hiệu lực hay đang bị kháng cáo, kháng nghị;
- Về thời hạn tự nguyện thi hành án, khoản
2 Điều 311 Luật TTHC quy định thời hạn tự nguyện thi hành án là 30 ngày kể
từ ngày nhận được bản án, quyết định của Toà án. Hầu hết các địa phương đều có
ý kiến cho rằng quy định trên rất khó thực hiện vì hầu hết các bản án hành
chính đều liên quan đến lĩnh vực đất đai, xây dựng, là các vụ việc phức tạp,
quá trình tổ chức thi hành phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ của pháp luật
nội dung và thường kéo dài, không thể thi hành xong trong 30 ngày;
- Một số bản án, quyết định của Tòa án về vụ án
hành chính chưa đảm bảo tính thống nhất, tính khả thi gây khó khăn cho người phải
thi hành án như có trường hợp vụ việc có tình tiết pháp lý như nhau nhưng bản
án tuyên khác nhau dần đến người phải thi hành án phải thực hiện việc đề nghị
xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc nội dung bản án tuyên khác với
kết luận của các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện thanh tra, kiểm tra và đã
có kết luận làm cho cơ quan phải thi hành án đồng thời cũng là cơ quan phải chấp
hành kết luận của cơ quan thanh tra lúng túng, phải xin ý kiến hướng dẫn làm
kéo dài thời gian thi hành án;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý nhà nước về
ngành và lĩnh vực phát sinh tranh chấp hành chính còn có quan điểm khác nhau giữa
cơ quan xét xử và cơ quan quản lý nhà nước cũng đã gây khó khăn cho cơ quan nhà
nước là bên phải thi hành trong việc thực hiện bản án hành chính của Tòa án và
quy định về chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành;
- Việc bố trí kinh phí để thực hiện việc bồi thường,
hỗ trợ khi thực hiện bản án rất khó khăn do hầu hết các dự án đã hoàn thành hoặc
số tiền bồi thường lớn. Một số bản án tuyên chưa phù hợp với tình tiết khách
quan nên khó thi hành trên thực tế;
- Cơ quan, tổ chức phải thi hành án chưa nghiên cứu
kỹ quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án, trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức phải thi hành án dẫn đến lúng túng khi tổ chức thi hành. Quá
trình tổ chức thi hành bản án thiếu sự đồng thuận, hợp tác của người được thi
hành án trong quá trình tổ chức thi hành án.
2.3.3. Tình hình thực hiện kiến nghị của VKSND
liên quan đến việc Chủ tịch UBND, UBND chậm thi hành án, không chấp hành, chấp
hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án.
Theo báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và trên cơ sở kết quả theo dõi công tác THAHC của cơ quan THADS cho
thấy, từ khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực đến nay, VKSND các cấp một số địa
phương như Bắc Giang, Ninh Thuận, Bình Định, Bình Dương, Quảng Nam, Phú Yên,
Tuyên Quang, Đắk Lắk, Thanh Hóa, Bình Thuận, Lào Cai và VKSND Thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng đã ban hành một số kiến nghị đối với
UBND các cấp liên quan đến việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án về vụ án hành chính đã có hiệu lực. Nhìn chung, sau khi nhận được kiến nghị
của VKSND các cấp, UBND, Chủ tịch UBND các cấp đều triển khai thực hiện nghiêm
túc theo quy định.
3. Công tác kiểm tra, đôn đốc
cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý trong việc chấp hành pháp luật
TTHC và THAHC theo quy định của Luật TTHC.
Theo báo cáo của các địa phương, trong thời gian
qua, thực hiện trách nhiệm người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải
thi hành án, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo,
đôn đốc UBND huyện, thị xã, thành phố trực thuộc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật
TTHC và THAHC, tổ chức thi hành dứt điểm bản án hành chính của Tòa án, đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, tránh việc khiếu nại, khiếu
kiện của người được thi hành án. Cụ thể: Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đều đã có nhiều văn bản chỉ đạo, đôn đốc đối với các cơ quan hành
chính trên địa bàn tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của Luật TTHC, Nghị định
số 71/2016/NĐ-CP, Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019 và các ý kiến chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ cũng như các văn bản hướng dẫn, đôn đốc của Bộ Tư pháp về
việc chấp hành pháp luật TTHC và THAHC cũng như văn bản đôn đốc, chỉ đạo đối
các vụ việc cụ thể.
Một số địa phương như: Thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh Quảng Nam, Bà Rịa- Vũng Tàu, Lào Cai, Ninh Thuận, Nghệ An, Chủ tịch UBND tỉnh,
Thành phố đã chỉ đạo thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra công tác
chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính nhằm đôn đốc
việc tổ chức thi hành án và kịp thời chấn chỉnh các tồn tại, hạn chế trong việc
chấp hành các quy định của pháp luật TTHC và THAHC. Các địa phương: Quảng Ninh,
Đắk Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương đã thành lập Tổ tham mưu giúp việc cho
Chủ tịch UBND trong công tác chấp hành pháp luật TTHC và công tác THAHC.
Có thể thấy, thông qua công tác chỉ đạo, kiểm tra
đã góp phần nâng cao nhận thức của người đứng đầu các cơ quan hành chính trong
công tác chấp hành pháp luật TTHC và THAHC từ đó nhiều địa phương kết quả THAHC
đã có chuyển biến tích cực như Thành phố Hồ Chí Minh, Đắk Lắk, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Ninh Thuận, Nghệ An; có địa phương như Quảng Ninh do làm tốt công tác tham
mưu trong quá trình tham gia tố tụng nên mặc dù là địa phương có tốc độ phát
triển kinh tế nhanh, các dự án liên quan đến thu hồi, bồi thường đất đai nhiều
nhưng số QĐHC bị khởi kiện phải đưa ra xét xử không nhiều do đã được giải quyết
tại giai đoạn đối thoại, ngoài ra, số vụ việc Tòa tuyên chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của công dân, tổ chức cũng chiếm tỷ lệ thấp trên tổng số QĐHC, HVHC bị khởi
kiện.
Đối với việc chỉ đạo, xem xét xử lý trách nhiệm đối
với người phải thi hành án thuộc thẩm quyền quản lý hầu hết các địa phương chưa
báo cáo hoặc báo cáo chưa đầy đủ. Tuy nhiên, thông qua công tác theo dõi của hệ
thống THADS cho thấy đến nay chưa có trường hợp nào người phải thi hành án bị
xem xét, xử lý trách nhiệm do vi phạm quy định của pháp luật TTHC và THAHC.
4. Công tác tổng hợp, báo cáo kết
quả thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính.
Việc thực hiện cung cấp thông tin về kết quả thi
hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định tại Điều 311 Luật
TTHC năm 2015, theo báo cáo của các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thể hiện UBND cấp tỉnh thường xuyên chỉ đạo Chủ tịch UBND, UBND các huyện,
thị xã, thành phố là người phải THAHC phải kịp thời báo cáo kết quả thi hành án
về UBND tỉnh, cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án dân sự tỉnh. Tuy
nhiên, qua công tác theo dõi THAHC của cơ quan THADS cho thấy vẫn còn tình trạng
UBND, Chủ tịch UBND là người phải thi hành án, không cung cấp thông tin hoặc chậm
cung cấp thông tin về kết quả THAHC theo quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đến
công tác theo dõi, báo cáo kết quả thi hành án phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo
của Chính phủ về THAHC.
5. Đánh giá chung
Trên cơ sở Luật TTHC năm 2015, thể chế về THAHC,
theo dõi THAHC đã từng bước được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn, trong đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP, Bộ Tư
pháp, cơ quan có chức năng tham mưu giúp Chính phủ quản lý nhà nước về THAHC đã
ban hành hoặc phối hợp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thống kê, báo
cáo công tác THAHC, theo dõi THAHC; tham mưu Thủ tướng Chính phủ có nhiều văn bản
bản chỉ đạo, điều hành đối với các bộ, ngành và địa phương chấp hành nghiêm các
quy định của Luật TTHC và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP do đó công tác chấp hành
pháp luật TTHC và THAHC đã có những chuyển biến tích cực từ Trung ương đến địa
phương. Trong đó, cấp ủy, chính quyền các cấp ở nhiều địa phương đã quan tâm,
chỉ đạo quyết liệt đối với công tác THAHC trên địa bàn với việc ban hành các Chỉ
thị, đưa vào các Nghị quyết hay các văn bản chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực
hiện; công tác kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành pháp luật TTHC, THAHC được triển
khai thực hiện thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm; công tác thống kê, báo
cáo về kết quả THAHC, công tác theo dõi THAHC của Hệ thống THADS đã được triển
khai, từng bước đi vào nền nếp. Ở nhiều địa phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã
đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra đối với các bản án hành chính trên địa bàn chưa thi
hành xong. Kết quả THAHC theo đó đã có những chuyển biến tích cực, qua đó góp phần
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, công dân, bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật và tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ trong bộ máy
hành chính nhà nước.
Đánh giá kết quả chung cho thấy, qua 07 năm thi
hành, Luật TTHC năm 2015 đã góp phần bảo đảm thực hiện chủ trương của Đảng về cải
cách tư pháp, các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, góp phần bảo đảm nguyên tắc hiến định mọi bản án có hiệu lực
pháp luật phải được nghiêm chỉnh thi hành, góp phần hoàn thiện từng bước quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
II. TỒN TẠI, HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN,
VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH THI HÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH NĂM 2015
1. Tồn tại, hạn chế
Trên cơ sở kết quả tổng hợp kết quả tổng kết Luật
TTHC năm 2015 của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Tư pháp nhận
thấy, mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã luôn quan tâm chỉ đạo quyết liệt,
các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chấp hành
nghiêm túc pháp luật TTHC và THAHC, tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được
thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: (1) nhiều địa phương, người bị kiện là
các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước chưa thực hiện nghiêm quy định về việc tham gia đối thoại, tham
gia phiên tòa, cung cấp tài liệu, chứng cứ và bảo vệ quyền và lợi ích của nhà
nước trước Tòa án. Một số vụ việc quá trình tổ chức thi hành án gặp khó khăn,
vướng mắc có nguyên nhân liên quan đến việc không tham gia đối thoại, tham gia
phiên tòa, chậm hoặc không cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cơ quan hành
chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước;
(2) vẫn còn nhiều bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính đã có hiệu
lực pháp luật nhưng chưa được thi hành xong, số bản án chưa thi hành xong chuyển
kỳ sau tăng qua các năm; (3) mặc dù còn nhiều bản án, quyết định của Tòa án về
vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành xong, trong
đó có một số bản án đã kéo dài trong nhiều năm, Tòa án đã ra quyết định buộc
THAHC, VKSND, cơ quan THADS đã có nhiều văn bản đôn đốc, kiến nghị xem xét
trách nhiệm, tuy nhiên, vẫn chưa có trường hợp cán bộ, công chức, người đứng đầu
cơ quan nhà nước là bên phải thi hành án bị xem xét, xử lý trách nhiệm do chậm
thi hành án, không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản
án, quyết định của Tòa án; (4) Nhận thức pháp luật, sự quan tâm đối với việc chấp
hành pháp luật TTHC của người đứng đầu UBND ở một số đơn vị, địa phương còn chưa
thật sự đầy đủ, dẫn đến việc chấp hành chưa nghiêm các quy định của pháp luật
TTHC. Một số cơ quan, tổ chức, cá nhân là người phải THAHC chưa thực sự nâng
cao trách nhiệm trong việc thi hành án, mặc dù người đứng đầu cơ quan cấp trên
trực tiếp của người phải thi hành án đã đôn đốc, chỉ đạo thi hành nhiều lần.
2. Khó khăn, vướng mắc
Quá trình tổng hợp báo cáo tổng kết của các địa
phương cho thấy hầu hết các địa phương đều phản ánh một số khó khăn, vướng mắc
sau:
- Quy định về người đại diện trong TTHC: Khoản 3 Điều 60 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Trường hợp người
bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị
kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải
tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này”. Một trong những quyền,
nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định tại Điều 56 Luật TTHC
năm 2015 là “Tham gia phiên tòa, phiên họp”; “Phải có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa án ...”.
Quá trình triển khai thực hiện quy định này các địa
phương phản ánh gặp rất nhiều khó khăn, nhất là ở các tỉnh, thành phố lớn.
Nguyên nhân là do mỗi vụ án hành chính thường kéo dài và người bị kiện phải
tham gia nhiều giai đoạn từ phiên họp giao nộp cung cấp chứng cứ, đối thoại,
xác minh và các phiên xét xử. Nhiều trường hợp, người đứng đầu cơ quan bị kiện
đã tham gia phiên tòa theo đúng quy định ngay từ lần triệu tập đầu tiên, nhưng
thường các phiên tòa lại bị hoãn, dẫn đến người đứng đầu hoặc của cấp phó (khi
được ủy quyền) khó khăn trong việc chủ động sắp xếp công việc để tham gia phiên
tòa, trong khi người đứng đầu với trách nhiệm quản lý, điều hành, khối lượng
công việc phải chỉ đạo giải quyết là rất lớn. Đồng thời, với việc vắng mặt của
một bên đương sự trong quá trình Tòa án xem xét, giải quyết vụ án, trong nhiều
trường hợp đã gây khó khăn cho Hội đồng xét xử trong việc xem xét, đánh giá
toàn diện, khách quan vụ việc để đưa ra quyết định cuối cùng. Điều này cũng ảnh
hưởng đến chất lượng bản án, quyết định của Tòa án cũng như hiệu quả trong quá
trình tổ chức THAHC.
Bên cạnh đó, quá trình để ban hành các QĐHC là do
các cơ quan chuyên môn tham mưu thực hiện nên khi phát sinh tranh chấp, Thủ trưởng
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND là đơn vị tham mưu sẽ nắm rõ toàn bộ vụ việc
phát sinh tranh chấp hành chính. Sự tham gia của Thủ trưởng các cơ quan chuyên
môn sẽ giúp cho Hội đồng xét xử có được góc nhìn đầy đủ, toàn diện, khách quan
về vụ việc phát sinh tranh chấp hành chính, trên cơ sở đó đưa ra phán quyết bảo
đảm khách quan, khả thi và đúng quy định của pháp luật. Vì, vậy, để đảm bảo quy
định này được thực hiện đầy đủ, phù hợp với thực tế, các địa phương kiến nghị
xem xét, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 60 Luật TTHC năm 2015
theo hướng mở rộng đối tượng được ủy quyền tham gia TTHC đến Thủ trưởng cơ quan
chuyên môn - là đơn vị đã tham mưu ban hành QĐHC, thực hiện HVHC bị khởi kiện.
- Quy định về thời hạn tự nguyện THAHC: Tại khoản 2 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Người phải thi
hành án có trách nhiệm thi hành án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
bản án, quyết định của Tòa án, trừ một số trường hợp bản án, quyết định phải
thi hành ngay”. Quy định nêu trên chưa rõ trong thời hạn tự nguyện thi hành án,
người phải thi hành án phải thi hành xong tất cả các nghĩa vụ theo nội dung bản
án hay chỉ cần đã tiến hành được một trong các bước để thi hành án theo thời hạn,
trình tự, thủ tục mà pháp luật quản lý chuyên ngành điều chỉnh được xem là đã tự
nguyện thi hành án. Điều này gây khó khăn trong việc xác định có hay không việc
vi phạm nghĩa vụ THAHC trong những vụ việc THAHC cụ thể.
- Quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
VKSND trong THAHC: Theo quy định tại Điều 315 Luật TTHC năm
2015, VKSND có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ
THAHC và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án để có
biện pháp thi hành nghiêm bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, chưa có quy
định về trách nhiệm trả lời, thời hạn trả lời kiến nghị hoặc thông báo kết quả
thực hiện kiến nghị của các chủ thể bị kiến nghị cho VKSND. Điều này làm giảm
hiệu lực các kiến nghị của VKSNS trên thực tế.
Ngoài các khó khăn, vướng mắc trên, một số địa
phương phản ánh một số khó khăn khác như:
- Việc yêu cầu phiếu lý lịch tư pháp đối với công
chức cơ quan nhà nước tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi
kiện là chưa phù hợp, không cần thiết và gây phát sinh chi phí cho ngân sách
nhà nước.
- Quy định về thời hiệu khởi kiện, theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 116 Luật TTHC năm 2015 thì thời hiệu khởi
kiện vụ án hành chính là 01 năm kể từ ngày “ nhận được” hoặc “ biết được” QĐHC,
HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Tuy nhiên, Luật TTHC năm 2015 không
quy định cụ thể trường hợp nào tính từ ngày “nhận được”, trường hợp nào tính từ
ngày “biết được” gây khó khăn trong việc xác định thời hiệu.
- Luật TTHC năm 2015 tại khoản 11 Điều
55 quy định đương sự có quyền “Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ
án”. Tuy nhiên, Điều 141 Luật TTHC năm 2015 quy định Tòa án
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 141 (không có trường hợp tạm đình chỉ
do đương sự có yêu cầu). Vì vậy, nếu phát sinh trường hợp đương sự yêu cầu tạm
đình chỉ thì sẽ không có căn cứ thực hiện.
III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị với Quốc hội
Trên cơ sở kết quả tổng hợp kết quả tổng kết thực
tiễn thi hành Luật TTHC năm 2015 của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương cho thấy, các địa phương kiến nghị Chính phủ có ý kiến đề xuất TANDTC
nghiên cứu, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật TTHC năm
2015, trong đó:
- Quy định về về thẩm quyền của Hội đồng xét xử vụ
án hành chính: Luật TTHC năm 2015 chỉ trao cho Hội đồng xét xử thẩm quyền xem
xét về tính hợp pháp của QĐHC, HVHC, để thi hành án, trong nhiều trường hợp cơ
quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước là bên bị khởi kiện phải ban
hành hoặc thực hiện một QĐHC, HVHC mới. Thực tiễn đã chỉ ra đây là nguyên nhân
dẫn đến việc không ít trường hợp, mặc dù đã có bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực nhưng quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân vẫn không được bảo
đảm do QĐHC, HVHC mới vẫn cơ bản giữ nguyên nội dung như QĐHC, HVHC bị khởi kiện,
dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân chưa được giải quyết triệt
để theo đúng quy định của pháp luật. Để khắc phục bất cập trên, nhiều địa
phương kiến nghị, Luật TTHC cần bổ sung quy định khi giải quyết vụ án hành
chính, Hội đồng xét xử có nhiệm vụ tuyên rõ, tuyên cụ thể nhiệm vụ, công vụ mà
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước phải thực hiện nhiệm
vụ, công vụ sau khi QĐHC, HVHC bị tuyên hủy, tuyên trái pháp luật một phần hoặc
toàn bộ nhằm khắc phục tình trạng lúng túng trong việc xác định nghĩa vụ phải
THAHC của người phải thi hành án, cơ quan THADS, VKSND hoặc Thủ trưởng cơ quan
cấp trên của người phải thi hành án.
- Quy định về người đại diện trong TTHC: Do các vụ
án hành chính thường kéo dài, đương sự phải có mặt nhiều lần theo triệu tập của
Tòa án trong khi người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước phải chỉ đạo, giải
quyết rất nhiều công việc của địa phương. Bên cạnh đó, quá trình để ban hành
các QĐHC là do các cơ quan chuyên môn tham mưu thực hiện nên khi phát sinh
tranh chấp, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn là đơn vị tham mưu sẽ nắm rõ toàn
bộ vụ việc phát sinh tranh chấp hành chính. Sự tham gia của Thủ trưởng các cơ
quan chuyên môn sẽ giúp cho Hội đồng xét xử có được góc nhìn đầy đủ, toàn diện,
khách quan về vụ việc phát sinh tranh chấp hành chính, trên cơ sở đó đưa ra
phán quyết bảo đảm khách quan, khả thi và đúng quy định của pháp luật. Vì vậy,
để đảm bảo quy định này được thực hiện đầy đủ, phù hợp với thực tế, các địa
phương kiến nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 60 Luật
TTHC năm 2015 theo hướng mở rộng đối tượng được ủy quyền tham gia TTHC đến
Thủ trưởng cơ quan chuyên môn - là đơn vị đã tham mưu ban hành QĐHC, thực hiện
HVHC bị khởi kiện.
- Quy định về thời hạn tự nguyện THAHC: Trên cơ sở
đặc thù của đối tượng THAHC là các QĐHC, HVHC, theo đó, quá trình THAHC là quá
trình cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước phải ban
hành QĐHC, thực hiện HVHC mới với thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn do
pháp luật quản lý hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực phát sinh tranh chấp
quy định. Do đó, để phù hợp với thực tiễn quản lý hành chính nhà nước, các địa
phương kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 Điều 311 Luật
TTHC năm 2015 và các quy định có liên quan theo hướng quy định rõ người phải
thi hành án có trách nhiệm “tổ chức” triển khai thi hành bản án, quyết định của
Tòa án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa
án. Theo đó, không nhất thiết trong thời hạn tự nguyện thi hành án, người phải
thi hành phải hoàn thành xong nhiệm vụ, công vụ mà bản án đã tuyên mới được xác
định là tự nguyện THAHC.
- Quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
VKSND trong THAHC: Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các kiến nghị của VKSND đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ THAHC và cơ quan, tổ chức cấp trên trực
tiếp của người phải thi hành án trên thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả THAHC,
một số địa phương kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật TTHC năm 2015 theo hướng bổ
sung các quy định về trách nhiệm trả lời, thời hạn trả lời kiến nghị hoặc thông
báo kết quả thực hiện kiến nghị của các chủ thể bị kiến nghị cho VKSND.
- Ngoài ra, một số địa phương kiến nghị một số nội
dung hoàn thiện Luật TTHC như:
+ Quy định và xác định điều kiện tham gia tố tụng
là cán bộ, công chức cơ quan nhà nước một cách cụ thể và phù hợp với đặc điểm
quản lý công chức theo hướng không yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với
cán bộ, công chức tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị kiện trong các vụ án hành chính; Quy định và không giới hạn đối
tượng tham gia tố tụng làm việc trong các cơ quan theo hướng cho phép cán bộ,
công chức công tác trong ngành thanh tra (bao gồm Thanh tra nhà nước và Thanh
tra chuyên ngành) và ngành công an được tham gia tố tụng với tư cách là người đại
diện theo ủy quyền của người bị kiến hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị kiện;
+ Sửa khoản 1 Điều 128 Luật TTHC
năm 2015 theo hướng tăng thời gian để tạo điều kiện cho người bị kiện, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện và cung
cấp tài liệu chứng cứ khi nhận thông báo thụ lý vụ án, thông báo yêu cầu cung cấp
chứng cứ của Toà án;
2. Kiến nghị với Chính phủ
- Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Nghị định số
71/2016/NĐ-CP cho phù hợp với thực tiễn. Hoàn thiện chính sách, pháp luật đất
đai một cách khoa học, thống nhất, đầy đủ, bảo đảm xây dựng pháp luật về đất
đai tương đối hoàn chỉnh, toàn diện, bao quát các vấn đề liên quan, minh bạch về
đất đai, dự báo được các biến động trong tương lai. Cần bổ sung quy định cụ thể
về trách nhiệm của các cơ quan liên trong việc quản lý và khai thác thông tin đất
đai, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Nâng cao năng lực quản lý
nhà nước về đất đai, chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai đối với
chính quyền địa phương các cấp;
- Chỉ đạo Bộ Tư pháp tăng cường tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về THAHC cho công chức các hành chính nhà nước và
nghiệp vụ theo dõi THAHC cho công chức cơ quan THADS. Tổ chức kiểm tra, kiểm
tra liên ngành về THAHC; hoàn thiện các quy định về chế độ báo cáo, thống kê về
công tác thi hành án hành chính.
Trên đây là Báo cáo tổng hợp kết quả tổng kết thực
tiễn thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015 của UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Bộ Tư pháp trân trọng báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
- Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang (để b/c);
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để b/c);
- Tòa án nhân dân tối cao (để ph/h);
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (để ph/h);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ (để p/h);
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW (để ph/h);
- Lưu: VT, TCTHADS.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Mai Lương Khôi
|
[1] UBND các tỉnh
Bình Phước, Đắk Nông, Hậu Giang, Hưng Yên, Tây Ninh chưa có báo cáo tổng kết
[2] Chỉ thị số
29/CT-UBND ngày 31/12/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về tăng cường
công tác thi hành án hành chính trên địa bàn; Chỉ thị số 19-CT/TU ngày
26/5/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án hành chính trên địa bàn tỉnh,
Công văn số 6936-CV/TU ngày 20/01/2020 của Thường trực Tỉnh ủy về chỉ đạo tăng
cường công tác chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành
chính.
[3] Chỉ thị số
04/CT-UBND ngày 27/2/2018 về tăng cường công tác thi hành án dân sự trên địa
bàn và Chỉ thị số 04/CT-UBND ngày 25/2/2020 về tăng cường chấp hành pháp luật tố
tụng hành chính trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
[4] Chỉ thị số
05/CT-UBND ngày 27/6/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng.
[5] Nghị quyết số
379-NQ/BCS ngày 18/2/2022 của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Đồng Nai.
[6] UBND các tỉnh
Bình Phước, Đắk Nông, Hậu Giang, Hưng Yên, Tây Ninh chưa có báo cáo tổng kết.
Báo cáo của UBND Thành phố Hà Nội và UBND tỉnh Thái Bình không có thông tin, số
liệu.
[7] UBND các tỉnh
Bình Phước, Đắk Nông, Hậu Giang, Hưng Yên, Tây Ninh chưa có báo cáo tổng kết.
Báo cáo của UBND Thành phố Hà Nội và UBND tỉnh Thái Bình không có thông tin, số
liệu.