Báo cáo 204/BC-BTP về công tác tư pháp 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu công tác 6 tháng cuối năm 2017 do Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 204/BC-BTP
Ngày ban hành 24/07/2017
Ngày có hiệu lực 24/07/2017
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Lê Thành Long
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BỘ TƯ PHÁP
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 204/BC-BTP

Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2017

 

BÁO CÁO

CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM VÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CÔNG TÁC 6 THÁNG CUỐI NĂM 2017

Sáu tháng đầu năm 2017, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch có chiều hướng gia tăng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; các chính sách an sinh xã hội, chăm lo người có công và các đối tượng chính sách được quan tâm thực hiện; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy vậy, tình hình kinh tế - xã hội trong nước những tháng đầu năm còn nhiều khó khăn, thách thức. Nông nghiệp, nhất là chăn nuôi gặp nhiều khó khăn; giải ngân các nguồn vốn đầu tư phát triển chậm so với yêu cầu; trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp…

Đối với công tác Tư pháp, với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và cấp Ủy, chính quyền địa phương các cấp, toàn Ngành đã tập trung thực hiện các nhiệm vụ, nhất là 09 nhóm nhiệm vụ trọng tâm được nêu tại Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 03/01/2017 của Bộ Tư pháp110 nhóm nhiệm vụ chủ yếu theo Chương trình hành động của Ngành Tư pháp2 thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2017 và các chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ. Báo cáo này tập trung đánh giá việc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm và các kết quả nổi bật của công tác tư pháp trong 6 tháng đầu năm; xác định những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân để từ đó đề xuất nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu công tác 6 tháng cuối năm 2017.

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017

I. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH

Công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ và cơ quan tư pháp địa phương bám sát với công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nhìn chung, các Bộ, ngành, địa phương đã kịp thời hơn trong ban hành, phê duyệt kế hoạch công tác tư pháp/pháp chế của cơ quan, địa phương.

- Bộ Tư pháp đã chỉ đạo khẩn trương ban hành các chương trình, kế hoạch hành động để thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, qua đó cụ thể hóa các nhiệm vụ thực hiện trước mắt và lâu dài, gắn với chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp, như: Chương trình hành động của Bộ Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 08/02/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP; Kế hoạch hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ...

- Thực hiện yêu cầu của Chính phủ về tăng cường hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, phong trào "khởi nghiệp", toàn ngành Tư pháp đã chú trọng hoàn thiện và tập trung theo dõi tình hình thi hành các quy định của pháp luật về tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong việc tiếp cận, khai thác các nguồn lực về vốn, khoa học kỹ thuật, đất đai, lao động.

Bộ Tư pháp đã chỉ đạo quyết liệt thực hiện 121 nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, qua đó đã hoàn thành 72 nhiệm vụ, đang tiếp tục thực hiện 49 nhiệm vụ, không có nhiệm vụ quá hạn. Bộ đã kịp thời trả lời các phản ánh, kiến nghị của cử tri qua các kỳ họp Quốc hội, của người dân, doanh nghiệp. Bộ, ngành Tư pháp cũng đã kịp thời hơn trong nắm bắt những bất cập, vướng mắc chuyên môn ở cơ sở để chỉ đạo, hướng dẫn.

- Thực hiện Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020, Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2017-2020 (Quyết định số 493/QĐ-BTP ngày 05/4/2017); Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2017 của Bộ Tư pháp (Quyết định số 797/QĐ-BTP ngày 05/6/2017). Trong đó, đã đề ra các nhiệm vụ nhằm cắt giảm tối đa các khoản kinh phí hội nghị, hội thảo, các hoạt động phô trương, lãng phí không cần thiết

Đồng thời, để nâng cao hiệu quả các hội nghị, hội thảo, các đợt thanh tra, kiểm tra và các chuyến công tác địa phương, Bộ Tư pháp đã rà soát tổng thể và ban hành Kế hoạch tổ chức Hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn và các đoàn thanh tra, kiểm tra, khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2017 (Quyết định số 506/QĐ-BTP ngày 10/4/2017), trong đó, thực hiện lồng ghép nhiều sự kiện, cắt giảm khoảng 25% số lượng hội nghị, hội thảo và các chuyến công tác địa phương theo đề xuất ban đầu của các đơn vị.

- Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành về THADS tiếp tục được đổi mới. Thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác THADS, 63/63 Tỉnh/Thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Chỉ thị lãnh đạo công tác THADS trên địa bàn. Bộ Tư pháp chú trọng chỉ đạo, phối hợp với cấp Ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác THADS tại các địa bàn trọng điểm và 12 địa phương xếp hạng yếu, kém năm 2016; tăng cường việc kiểm tra trong công tác THADS; định kỳ hoặc đột xuất họp giao ban trực tuyến trong Hệ thống THADS để kịp thời nắm bắt khó khăn, hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Tại địa phương, Cục THADS đã thường xuyên hướng dẫn chuyên môn đối với các Chi cục; chủ động tổ chức họp liên ngành với các sở, ban, ngành địa phương hoặc kịp thời báo cáo, xin ý kiến Ban Chỉ đạo THADS tìm hướng giải quyết đối với các vụ việc phức tạp.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ CÔNG TÁC

Bộ, ngành Tư pháp đã triển khai đồng bộ, toàn diện các lĩnh vực công tác, trong đó tập trung vào 09 nhóm nhiệm vụ trọng tâm được xác định từ đầu năm 2017. Kết quả cụ thể như sau:

1. Bộ Tư pháp đã tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ xây dựng, hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 22/2013/NĐ-CP và đang tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai Nghị định sau khi được Chính phủ ban hành. Tại Bộ Tư pháp, hầu hết các đơn vị đã thực hiện xong việc rà soát, đề xuất sửa đổi các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của đơn vị. Bên cạnh đó, nhằm tạo cơ sở để kiện toàn cơ quan tư pháp ở địa phương, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ trong soạn thảo, thẩm định các nghị định quy định về các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện3. Đồng thời, việc từng bước khắc phục mâu thuẫn về khối lượng công việc và nguồn lực triển khai thực hiện, nhất là ở các cơ quan tư pháp địa phương cũng được chú trọng qua công tác hoàn thiện thể chế một số lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành như lĩnh vực bồi thường nhà nước, trợ giúp pháp lý).

Thực hiện củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ các cơ quan tư pháp, pháp chế gắn với triển khai Kế hoạch số 1141/BCSĐCP ngày 11/11/2016 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, một số Bộ, ngành, địa phương (Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và đào tạo, Lạng Sơn, Quảng Bình, Đắk Lắk, Đồng Tháp, Trà Vinh...) đã ban hành các chương trình, kế hoạch, chỉ thị để triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đươc giao. Bộ Tư pháp cũng đã ban hành và đang tích cực triển khai Kế hoạch kiểm tra về công tác tổ chức, cán bộ tư pháp ở một số địa phương.

- Các cơ quan, đơn vị trong Ngành đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng, phê duyệt Bản mô tả công việc và Khung năng lực vị trí việc làm, làm cơ sở để tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ các cơ quan tư pháp, pháp chế từ Trung ương đến địa phương gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về tinh giản biên chế. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ được Bộ, ngành Tư pháp quan tâm, có nhiều kết quả tích cực. Toàn Ngành đã cơ bản hoàn thành việc rà soát, bổ sung quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2016-2021 và giai đoạn 2021-2026; xây dựng và đang tích cực thực hiện các đề án, kế hoạch tinh giản biên chế năm 2017 và giai đoạn đến năm 2021 theo đúng yêu cầu.

Đến nay, đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, pháp chế ở các địa phương cơ bản giữ được sự ổn định và ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ4. Sáu tháng đầu năm, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm 06 lãnh đạo cấp Vụ, bổ nhiệm lại 05 lãnh đạo cấp Vụ; các địa phương cũng đã quan tâm kiện toàn Lãnh đạo các cơ quan tư pháp.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, THADS các cấp được chú trọng. Tại Bộ Tư pháp, đã hoàn thành gần 50%, bảo đảm đúng tiến độ Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năm 2017; các lớp đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện đúng đối tượng, gắn với cập nhật kiến thức, các quy định mới cũng như thực tiễn triển khai công việc ở các địa phương; đã chọn, cử 319 lượt cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước; đặc biệt, đã tổ chức thành công Lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp lãnh đạo của người đứng đầu đơn vị thuộc Bộ.

2. Trong công tác xây dựng pháp luật, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, các Bộ, ngành đã tích cực hoàn thiện, trình Quốc hội thông qua 13/145 dự án luật, nghị quyết, cho ý kiến đối với 05/05 dự án khác, trong đó có nhiều dự án liên quan đến quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, như: Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật quản lý ngoại thương, Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi), Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Bộ Tư pháp đã phối hợp với các các cơ quan hoàn thiện, trình Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành cao Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết thi hành Bộ luật này, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sửa đổi), Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi), Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017; xây dựng, trình Chính phủ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật lý lịch tư pháp, bảo đảm chất lượng, tiến độ. Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức rà soát, báo cáo Chính phủ đề xuất cụ thể việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật và xác định tiến độ sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đất đai, xây dựng, nhà ở, đầu tư, kinh doanh và quy hoạch6, chuẩn bị danh mục các văn bản cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật đối với các lĩnh vực này trong thời gian tới.

Các Bộ, ngành, địa phương từng bước triển khai có hiệu quả Luật ban hành VBQPPL năm 2015, nhất là những điểm mới gắn với quy trình xây dựng, chính sách pháp luật; kịp thời phản ánh những vướng mắc, khó khăn trong thực hiện Luật tới Bộ Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ7.

- Nhằm giải quyết tình trạng nợ đọng văn bản, Bộ Tư pháp đã tăng cường theo dõi, đôn đốc sát sao tiến độ xây dựng, tổ chức làm việc với một số Bộ về tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết(8). Sáu tháng đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành được 41 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, trong đó có 27/42 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực. Trong số văn bản nợ ban hành, không có văn bản nào liên quan đến đầu tư, kinh doanh và không có văn bản nào được giao cho Bộ Tư pháp xây dựng.

- Thống kê cho thấy, số lượng VBQPPL được ban hành tăng ở cấp Trung ương và giảm mạnh ở các địa phương, nhất là cấp huyện, cấp xã, phù hợp với quy định mới của Luật ban hành VBQPPL. Sáu tháng đầu năm, các Bộ, ngành đã xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 523 VBQPPL (tăng 93 văn bản so với cùng kỳ 2016); các địa phương ban hành 1.520 VBQPPL cấp tỉnh (giảm 28 văn bản so với cùng kỳ 2016), 1.846 VBQPPL cấp huyện (giảm 36,8% so với cùng kỳ 2016) và 14.114 VBQPPL cấp xã (giảm gần 50% so với cùng kỳ 2016).

Biểu đồ số 01: So sánh số lượng VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và HĐND, UBND cấp tỉnh, cấp huyện ban hành 6 tháng đầu năm 2016, 2017

[...]