BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1352 TM/TTTN
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2004
|
THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC THÁNG 3/2004
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
I. TỔNG QUAN CHUNG
1. Diễn biến quan hệ cung cầu, giá
cả một số mặt hàng thiết yếu trên thị trường thế giới
. Tháng 3/2004 quan hệ cung cầu, giá
cả một số mặt hàng thiết yếu diễn biến phức tạp và luôn ở chiều hướng gia tăng,
đặc biệt sản phẩm thép, dầu mỏ, hạt nhựa tăng mạnh: Dầu mỏ luôn biến động từ 35
- 38 USD/thùng, Thép từ 420 - 450 USD/tấn phôi, Hạt nhựa tăng 20 - 30USD/tấn so
với tháng 2 năm 2004, urê từ 190 - 200 USD/tấn. Trong suốt quý I/2004 những mặt
hàng này biến động theo chiều hướng cung đuối hơn cầu, giá đã ở mức tiêu thụ
các sản phẩm này ở Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga và các nước Đông Bắc Âu vẫn gia tăng
ảnh hưởng lớn đến giá cả thế giới (ví dụ: Trung Quốc Tiêu thụ 1/3 sản lượng
thép thế giới, khoảng 300/900 triệu tấn, đứng thứ hai sau Hoa Kỳ về tiêu thụ
xăng dầu và phân bón).
. Dự báo quan hệ cung cầu, giá cả các
mặt hàng thiết yếu quý II/2004 vẫn dao động và đứng ở mức cao đặc biệt là thép,
dầu mỏ (OPEC dự kiến cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng/ngày, Nga sẽ tăng thuế xuất
khẩu dầu mỏ, Hoa Kỳ dự kiến mua tăng dự trữ xăng dầu, Nga hạn chế xuất khẩu
phôi thép trong khi đó Trung Quốc có nhu cầu lớn). Dự báo, dầu mỏ giữa giá ở mức
xấp xỉ 35 USD/thùng, thép 420-440 USD/tấn phôi, Urê ở mức 190 - 200 USD/tấn. Thời
cơ như vậy thuận lợi cho các tập đoàn dầu mỏ, thép, các trung tâm bán buôn thế
giới đầu cơ, khống chế thị trường, sẽ tác động tiêu cực đến thị trường Việt Nam
(hiện nay ta phải nhập 90% nhu cầu thép, 100% nhu cầu xăng dầu, 92 - 93% nhu cầu
Urê, 90% nguyên liệu thuốc chữa bệnh và nguyên liệu nhựa).
2. Tình hình thị trường trong nước
tháng 3 và quý I/2004, dự báo quý II/2004
. Do tình hình biến động cung cầu,
giá cả hầu hết các loại vật tư, nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh đã tác động
trực tiếp đến tình hình trong nước suốt cả quý I/2004 mà cao điểm là từ giữa
tháng 1 đến đầu tháng 3, giá thép XD cuối tháng 2 lên 8,7 triệu đến 9,3 triệu đồng/tấn;
giá Urê 3.400 - 3.500 đồng/kg; giá xăng dầu bán theo giá định hướng của QĐ 187:
xăng 6.000 đồng/lít, diezel 4.600 đồng/lít nhưng do giá nhập khẩu cao các doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu đều lỗ lớn. Do dịch cúm gà, thời tiết khô hạn, giá
rét kéo dài ở miền Bắc, miền Trung ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung thực phẩm,
đẩy giá tiêu dùng, giá thực phẩm lên cao vào dịp Tết Nguyên đán. Từ đầu tháng 3
đến nay giá thực phẩm, rau quả đã giảm dần, hàng tiêu dùng sản xuất bằng nguyên
liệu trong nước giảm, hàng sản xuất bằng nguyên liệu nhập và hàng nhập khẩu vẫn
giữ ở mức cao như thuốc chữa bệnh, sản phẩm thép, nhựa, phân Urê... Tổng mức
lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ bán lẻ quý I/2004 đạt 88.000 tỷ đồng, tăng 15,4%
cùng kỳ 2003, chỉ số giá tiêu dùng quý I/2004 tăng 4,9% so với tháng 12 năm
2003 (quý I/2003 là 2,5%) trong đó: nhóm dược phẩm và y tế tăng 4,3%, nhà ở và
vật liệu xây dựng tăng 4,4%, lương thực phẩm tăng 1,6%, vàng tăng 0,2%, USD
tăng 0,5%. Từ khoảng 20/3 đến nay, giá lúa gạo tăng mạnh: ĐBSCL từ 1.600 -
1.700 đồng/kg lên 2.000 - 2.200 đồng/kg, đồng bằng Bắc Bộ 1.900 - 2.100 đồng/kg
lên 2.500 - 2.7000 đồng/kg, giá mía cây tăng từ 220 - 250 đồng/kg lên 300 - 350
đồng/kg đã xảy ra tranh mua nguyên liệu mía giữa các nhà máy đường, và đã có xuất
gạo qua biên giới Trung Quốc với số lượng không nhiều. Xuất khẩu hàng hoá tháng
3 ước đạt 1,9 tỷ USD tăng 11,7% so tháng 2/2004, 3 tháng 2004 ước đạt 5 tỷ 408
triệu USD tăng 15,1% so cùng kỳ 2003, nhập khẩu hàng hoá 6 tỷ 149 triệu USD, nhập
siêu ước 741 triệu USD. Nguyên nhân:
- Giá thế giới tăng mạnh do nhu cầu
tăng nhưng nguồn cung không tăng.
- Không kiểm soát được giá nhập khẩu,
chi phí đầu vào của các nhà sản xuất như thép, thuốc chữa bệnh.
- Các nhà sản xuất, gia công chưa thiết
lập mạng lưới phân phối, thường mua đứt bán đoạn cho các tổng đại lý, đại lý
theo nhiều tầng nấc, các tổng đại lý gần như độc quyền phân phối tạo ra nhiều
chi phí lưu thông bất hợp lý, tuỳ tiện đầy giá lên hoặc găm hàng chờ giá, đối với
một số mặt hàng phải nhập nguyên liệu các tổng đại lý cũng nhập khẩu và bán cho
nhà sản xuất tăng thêm chi phí đầu vào.
- Một số phương tiện thông tin khi
đưa tin chưa chính xác gây tâm lý cho hệ thốn thương nhân và người tiêu dùng (sẽ
tăng lương cho những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước).
. Dự báo quan hệ cung cầu, giá cả
tháng 4 và quý II/2004 vẫn diễn biến theo chiều hướng giữ ở mức độ cao và có thể
không tăng hơn tháng 3/2004, tuy nhiên giá cả các sản phẩm như dầu mỏ, thép,
Urê vẫn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khó lường như nạn khủng bố thế giới, sự bất ổn
ở khu vực Trung Đông, sự cắt giảm sản lượng dầu mỏ của OPEC, những chính sách hạn
chế bán: tăng giá xuất khẩu phôi thép, mức độ mua dự trữ của Mỹ, mức độ tiêu thụ
của Trung Quốc... giá thực phẩm, sản phẩm tiêu dùng thông thường sẽ giảm dần
nhưng sẽ không trở lại ngay như ở mức trước tháng 12/2003.
II. MỘT SỐ MẶT HÀNG
1. Lương thực
Các tỉnh phía Bắc, do chủ động nguồn
nước khắc phục được nạn hạn hán nên về cơ bản đã hoàn thành gieo cấy vụ Đông
Xuân, đạt trên 1,1, triệu ha, hiện chỉ còn một số địa phương miền núi phía Bắc
đang tiếp tục gieo cấy. Giá lúa gạo ĐBSCL, ĐB Bắc Bộ biến động tăng còn các tỉnh
miền Trung và Đông Nam bộ, giá lương thực nhìn chung ổn định. Các tỉnh ĐBSCL
đang thu hoạch rộ vụ lúa Đông Xuân 2003/2004, tính đến 15/3/2004 thu hoạch được
84,5% diện tích gieo trồng. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sản lượng
lúa Đông Xuân ở ĐBSCL như sau:
Năm
|
Diện
tích (ha)
|
Măng
suất (Tấn/ha)
|
Sản
lượng (Tấn)
|
2002
- 2003
|
1.500.272
|
5,68
|
8.518.790
|
2003
- 2004
|
1.445.769
|
5,74
|
8.298.732
|
Như vậy, lượng gạo dành cho xuất khẩu
của vụ Đông Xuân ở mức khoảng 2,5 triệu tấn. Theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực,
đến nay hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký đạt khoảng 2 triệu tấn, trong đó có 1,5
triệu tấn thời hạn giao hàng trong 6 tháng đầu năm 2004 (nhiều hợp đồng XK được
ký trước tháng 1/2004 với giá thấp hơn hiện nay).
Tuy nguồn lương thực gia tăng và giá
lúa, gạo tăng nhưng việc thu mua của các doanh nghiệp vẫn gặp không ít khó khăn
do tình trạng tranh mua của các đơn vị xuất khẩu (nhất là mua gạo xuất khẩu tiểu
ngạch), cùng với tâm lý găm giữ lúa, gạo của nông dân (với hy vọng giá còn
tăng) đã tác động tới giá lúa, gạo tiếp tục tăng từ 100 - 200đ/kg tại nhiều nơi
với mức phổ biến: lúa tẻ từ 2.000 - 2.200 đ/kg (lúa chất lượng cao ở mức cao
hơn); gạo tẻ từ 3.100 - 3.200 đ/kg, gạo thành phẩm 5% tấm không bao tại mạn khoảng
3.180 - 3.250 đ/kg; 25% tấn khoảng 2.8500 - 3.050 đ/kg.
Trước tình hình trên, theo sự chỉ đạo
của Chính phủ, Bộ Thương mại đã có văn bản đề nghị các ngành, và các lực lượng
chức năng phối hợp kiểm tra, xử lý gian lận thương mại trong kinh doanh lúa, gạo.
Dự báo thời gian tới giá lương thực khả năng còn tiếp tục tăng, đề nghị các
doanh nghiệp giãn tiến độ thời gian giao hàng và thận trọng đối với việc xuất
khẩu gạo tiểu ngạch sang biên giới phía Bắc vì Trung Quốc sẽ quản lý nhập gạo bằng
hạn ngạch nhu đối với cao su.
Nhu cầu nhập khẩu gạo năm 2004 tăng,
đặc biệt tăng mạnh từ Trung Quốc và một số nước Trung Mỹ. Tại Thái Lan, Chính
phủ vẫn can thiệp vào thị trường thóc gạo nên giá gạo xuất khẩu của Thái Lan tiếp
tục tăng: gạo 100% B từ 227 USD/T tăng lên 253 USD/T; 5% tấm từ 220 USD/T tăng
lên 246 USD/T; 25% tấm 204 USD/T tăng lên 233 USD/T. Giá chào gạo xuất khẩu của
Việt Nam tiếp tục tăng: gạo 5% tấm từ 205 USD/T tăng lên 223 USD/T; 25% tấm từ
193 USD/tăng lên 223 USD/T (cùng thời điểm này năm 2003: 5% tấm là 174 USD/T;
25% tấm là 162 USD/T). Ước xuất khẩu gạo 3 tháng đầu năm 2004 đạt khoảng
808.000 tấn, giám 23,7% về lượng nhưng lại tăng 6,1% về trị giá so với cùng kỳ
vì giá gạo tăng gần 27%.
2. Mía đường
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định
số 28/2004/QĐ-TTg ngày 4 tháng 3 năm 2004 về Tổ chức lại sản xuất và thực hiện
một số giải pháp xử lý khó khăn đối với các nhà máy và công ty đường. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đang triển khai thực hiện quyết định. này.
Nhu cầu tiêu thụ đường nhìn chung ở mức
bình thường, ước tồn kho cuối tháng 3/2004 khoảng 287.000 tấn, nhưng giá đường
trên thị trường trong tháng bắt đầu tăng 300-600 đ/kg do nhiều nhà máy ở phía
Nam, nhất là các nhà máy đường ở miền Đông Nam bộ thiếu nguyên liệu đã ngừng hoạt
động. Phổ biến trên thị trường, giá đường RS là 5.300 đ/kg, RE là 5,600 đ/kg,
trong đó đường tinh luyện Biên Hoà ở mức 6.4000 đ/kg - là mức cao nhất trong 2
năm qua. Dự báo thời gian tới giá đường còn tiếp tục tăng, do mùa hè đến, nhưng
mức tăng không cao, nếu tăng mạnh đường nhập lậu có nguy cơ tràn vào thị trường
trong nước.
Trên thị trường đường thế giới, tại
Luân Đôn đường trắng giao tháng 5 từ 2004 USD/T tăng lên 213 USD/T (17/3). Dự
báo giá đường thế giới vụ 2003/2004 sẽ không giảm ở mức thấp như vụ 2002/2003,
vì mức du thừa cung đường trên thị trường năm nay thấp hơn so với năm trước (dự
báo sản lượng thế giới vụ 2003/2004 vượt mức tiêu thụ chỉ 514.000 tấn, trong
khi dư thừa vụ 2002/2003 là 6,92 triệu tấn).
3. Phân bón
Từ đầu năm 2004 đến nay, giá phân bón
thế giới tăng giảm thất thường. Trong tháng 3/2004, tại Châu Á nguồn cung có phần
dồi dào hơn, giá phân urê giảm nhẹ. Hiện nay giá urê bao nhập khẩu của Trung Quốc
khoảng 195 - 198 USD/T.
Quý I/2004 ước nhập khẩu 910.000 tấn
phân các loại (chỉ tăng 0,8% về lượng nhưng tăng tới 27,6% về trị giá so với
cùng kỳ), trong đó có khoảng 513.000 tấn Urê (tăng 14,3% về lượng và tăng tới
56,9% về trị giá so với cùng kì).
Trong nước, nhu cầu phân bón cho vụ
Đông Xuân đã được cân đối, đáp ứng đủ nhu cầu, tuy nhiên do giá cước vận chuyển
tăng, nên giá phân urê tăng từ 50 - 100đ/kg tại một số địa bàn. Các tỉnh phổ biến
ở mức từ 3.400 - 3.600 đ/kg (có tỉnh ở mức cao hơn).
Nhu cầu phân bón vụ Hè Thu 2004 khoảng
530.000 tấn Ure (trong đó miền Bắc là 70.000 tấn; miền Trung là 110.000 tấn và
Nam Bộ là 350.000 tấn). Với lượng tồn kho cuối vụ Đông Xuân chuyển sang là
200.000 tấn, nhập tháng 3 là 200.000 tấn và ước tháng 4 năm 2004 nhập tiếp
180.000 tấn ure, sẽ đảm bảo đủ nguồn.
Dự báo giá phân bón trên thị trường
thế giới cả năm 2004 vẫn diện biến phức tạp, khả năng còn duy trì ở mức cao. Vì
vậy, Tổ Điều hành thị trường trong nước và Hiệp hội Phân bón sẽ tổ chức họp với
các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu phân bón lớn để chủ động cung ứng đủ nguồn
phân bón cho năm 2004, nhất là cho vụ Đông Xuân 2004/2005.
Các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội phân
bón kiến nghị tăng thuế nhập khẩu NPK trên 3 - 5% và giảm thuế nguyên liệu đầu
vào phục vụ sản xuất.
4. Xăng dầu
Trên thị trường thế giới giá dầu thô
tiếp tục tăng ở mức cao (khoảng 38 USD/thùng) nguyên nhân do thiếu nguồn cung
các loại xăng dầu, dự trữ dầu thô của Mỹ giảm, tình hình chính trị thế giới nhiều
vùng bất ổn và nguy cơ khủng bố gia tăng tại nhiều nước. Với mức giá xăng dầu
thế giới hiện nay, việc kinh doanh xăng dầu trong nước vẫn tiếp tục lỗ mặc dù
gí định hướng đã tăng cao và các mức thuế nhập khẩu đang ở mức thấp (ước xăng
92 lỗ 540 đ/l; Diezel lỗ 264 đ/l; Dầu hoả lỗ 40 đ/l; Mazút lỗ 15đ/l, chỉ có
xăng 90 lãi 184 đ/l). Các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và bảo đảm nguồn cung,
đáp ứng được nhu cầu của thị trường với giá ổn định. Quý I/2004 ước nhập khẩu
được 2.831 nghìn tấn xăng đầu các loại, xăng 7,9% về lượng và tăng 14,5% về trị
giá so với cùng kỳ.
Dự báo giá xăng dầu thế giới còn ở mức
cao, đề nghị Bộ Tài chính bù lỗ kịp thời để các doanh nghiệp nhập khẩu đầu mối
duy trì tiến độ nhập khẩu.
5. Xi măng
Hiện đang mùa xây dựng, trong tháng
nhu cầu tiêu thụ xi măng tháng 3/2004 tăng cao hơn tháng trước, ước tiêu thụ 3
tháng năm 2004 đạt khoảng 5,429 triệu tấn (đạt 21% kế hoạch năm). Nguyên nhân
Quý I/04 tiêu thụ chậm là do giá sắt thép xây dựng tăng cao, nhiều công trình
xây dựng đang triển khai phải ngừng hoặc giãn tiến độ thi công chờ giá thép giảm.
Do nguồn cung xi măng trên thị trường
dồi dào, đáp ứng được nhu cầu với giá khá ổn định trong cả nước từ 720 - 760
đ/kg (phía Bắc) và 840 - 920 đ/kg (phía Nam). Trong tháng giá clinker nhập khẩu
tiếp tục đứng ở mức 21,5 -22 USD/T FOB.
Dự kiến từ nay đến tháng 6 năm 2004 tốc
độ tiêu thụ xi măng sẽ tăng mạnh. Để đảm bảo đủ nguồn, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo Tổng
công ty xi măng tập trung sản xuất ổn định, áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm
hạ giá thành sản xuất, nhập đủ clinker và phấn đấu giữ ổn định giá bán xi măng.
Do giá nhập khẩu clinker nhập khẩu và một số chi phí đầu vào như cước phí vận
chuyển, xăng dầu tăng... đề nghị Chính phủ điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu
clinker từ 20% xuống còn 10% đối với nguồn nhập từ các nước ASEAN và xem xét giảm
thuế nhập khẩu clinker đối với nguồn nhập từ các nước ngoài ASEAN của các nhà
máy liên doanh.
6. Thép xây dựng
Sau thời gian tăng giá đột biến liên
tục, giá thép trên thị trường thế giới đã chững lại và giám nhẹ. Giá phối thép
chào bán vào Việt Nam hiện ở mức 440 - 445 USD/tấn, giảm 20 - 30 USD/tấn so với
đầu tháng 3/2004. Giá thép tại thị trường Trung Quốc giảm bình quân khoảng 36
USD/tấn. Hiện nay trên thị trường Hà Nội đã xuất hiện chào bán thép của Trung
Quốc với giá 8.000 đ/kg (chưa có VAT và chưa xác định rõ chất lượng). Giá một số
nguyên liệu như thép phế cũng có chiều hướng giảm nhẹ.
Dự báo giá phôi thép và sản phẩm thép
trên thị trường thế giới năm 2004 còn đứng ở mức cao do nguồn cung giảm, nhu cầu
tăng (tăng khoảng 5,8% so với năm 2003, trong đó Trung Quốc tăng 12,8% chiếm
1/3 nhu cầu thế giới) cùng với giá nguyên liệu tăng (giá quặng sắt, thép phế liệu
tăng do nguồn cung khan hiếm) và cước phí vận chuyển tăng. Theo dự đoán từ nhiều
nguồn tin, khả năng sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt sắt thép trong tháng 4 -
5/2004, trong quý II giá thép sẽ tăng chậm hơn mức 2 tháng đầu năm và từ quý
III khả năng giá thép sẽ chững lại ở mức cao.
3 tháng đầu năm 2004 ước tiêu thụ khoảng
500.000 tấn thép xây dựng, giảm khoảng 20% so với tiến độ các năm trước. Tồn
kho của các đơn vị tành viên trong Hiệp hội Thép cuối tháng 03/2004 là 150.000
tấn sản phẩm và 190.000 tấn phôi - đây là mức tồn kho thấp so với mức tồn kho hợp
lý là 200.000 tấn sản phẩm và 200.000 tấn phôi; nhưng do trị giá cao và tiêu thụ
chậm nên cũng là khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
thép. Theo Hiệp hội Thép hiện có 4 công ty Liên doanh là Việt Hàn, Việt Y, Thép
úc và Việt Singapor đã tạm ngừng sản xuất. Giá bán thép xây dựng của một số nhà
hiện nay như sau:
(Giá
bán tại nhà máy, đã có VAT) Đ/vị: đồng/kg
Đơn
vị sản xuất
|
Thép
cuộn
|
Thép
cây
|
Phi
6
|
Phi
8
|
Phi
13-40
|
Thép Thái Nguyên
|
8.557
|
8.557
|
8.400
|
Công ty Vinausteel
|
|
|
9.030
|
Công ty Thép Việt Hàn
|
8.820
|
8.820
|
|
Công ty Nasteelvina
|
8.767
|
8.715
|
|
Công ty Thép Miền Nam
|
8.190
|
8.106
|
7.875
|
Công ty Vinakyoei
|
8.505
|
8.442
|
8.200
|
Công ty Thép Đà Nẵng
|
8.369
|
8.285
|
|
Công ty Thép Miền Trung
|
|
|
8.085
|
Giá bán lẻ thép tại thị trường hiện
lao động trong khoảng 8.600 - 9.000 đ/kg (tại những địa bàn xa giá có thể cao
hơn), so với cuối tháng 2/2004 giảm 200 - 300 đ/kg (một số địa bàn giảm ở mức
cao hơn). Tuy giá thép giảm, nhưng tình hình tiêu thụ thép chưa có chuyển biến,
nguyên nhân do giá thép còn ở mức cao các công trình còn mong chờ giá thép giảm
hơn nữa và chờ Chính phủ điều chỉnh giá dự toán XDCB.
Dự báo thời gian tới tình hình tiêu
thụ thép sẽ sôi động hơn, nhất là đối với các công trình thuộc ngân sách nhà nước
cấp, nếu được điều chỉnh vốn đầu tư. Do nguồn cung đáp ứng được nhu cầu (20
công ty sản xuất thép trong nước đã chuẩn bị đủ nguyên liệu sản xuất hết quý
II/2004 và đang ký hợp đồng nhập khẩu phục vụ sản xuất quý III/2004). Giá thép
trên thị trường sẽ giảm tại một số địa bàn, nhưng mức giảm không nhiều.
Đề nghị các doanh nghiệp cán thép tiếp
tục nhập khẩu phôi đảm bảo sản xuất bình thường, triển khai thực hiện việc rà
soát chi phí, xây dựng quy chế điều hành thị trường mặt hàng Thép đúng tiến độ làm
cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm bình ổn tốt hơn thị trường thép trong
nước. Hiện Hiệp hội Thếp đã có văn bản kiến nghị Chính phủ nâng thuế nhập khẩu
thép thành phẩm; theo Bộ Thương mại hiện nay chưa phải là thời điểm thích hợp để
tăng nhập khẩu trở lại, khi giá thép tương đối ổn định ở mức hợp lý sẽ xem xét
vấn đề này. Bộ Thương mại đã có văn bản trả lời Hiệp hội Thép theo ý kiến chỉ đạo
của Thủ tướng.
7. Nhựa
Trong những năm gần đây, ngành nhựa
Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao từ 25 - 30% năm. Hiện nay, ngành nhựa Việt
Nam và các nước trong khu vực đều phải lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhựa nhập
khẩu. Giá nguyên liệu nhựa tăng cao vào giữa và cuối tháng 02/2004, nhưng sang
đến đầu tháng 3/2004 đó có sự giảm nhẹ khoảng 20 - 50 USD/tấn. Tuy nhiên, vào
thời điểm này thì giá dầu mỏ đang biến động ở mức cao và nhu cầu vẫn đang tăng
lên từ các nước, đặc biệt là Trung Quốc cho nên giá nguyên liệu nhựa cũng không
thể giảm mạnh ngay được nên để bảo đảm ổn định sản xuất trong nước, nhất là đối
với việc đẩy mạnh các sản phẩm xuất khẩu, Bộ Thương mại đã có công văn tiếp tục
kiến nghị bỏ phụ thu đối với PVC.
8. Thuốc chữa bệnh
Theo báo cáo của Cục Quản lý Dược - Bộ
Y tế và Hiệp hội sản xuất kinh doanh Dược Việt Nam, trong 2 tháng đầu năm 2004
có 338 mặt hàng tăng giá, chiếm 3,3% trên tổng số thuốc đã được cấp số đăng ký
lưu hành tại Việt Nam, trong đó có 211 thuốc nước ngoài (chiếm 4,8% trên tổng số
4400 thuốc nước ngoài đăng ký tại VN) và 127 thuốc trong nước tăng giá (chiếm
2,22% trên tổng số 5720 thuốc trong nước đã đăng ký lưu hành. Theo Tổng cục Thống
kê thì chỉ số giá tiêu dùng nhóm thuốc và y tế quý I/2004 tăng tới 4,3%, như vậy
Bộ Y tế cần quan tâm chấn chỉnh giá cả dịch vụ y tế.
Để đảm bảo cung ứng đủ thuốc cho nhân
dân và ổn định thị trường thuốc tân dược trong thời gian tới, dưới sự chỉ đạo
sát sao của Chính phủ Bộ Y tế đã phối hợp với các ngành chức năng triển khai
nhiều giải pháp như tổ chức đấu thầu việc cung ứng thuốc cho các bệnh viện và
cơ sở điều trị một số mặt hàng; yêu cầu khoa dược của bệnh viện phải cung cấp
thuốc đến tận giường bệnh, không để bệnh nhân phải mua thuốc bên ngoài và giá cả
phải rẻ hơn thị trường; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
các Quy chế chuyên môn như thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy chế kê đơn và
bán thuốc theo đơn... Đảm bảo thuốc thiết yếu cho tuyến cơ sở, đẩy mạnh công
tác tuyên truyền về sử dụng thuốc an toàn, hợp lý; cho phép các doanh nghiệp nhập
khẩu những loại thuốc chuyên khoa, đặc trị cùng loại ở các nước có giá rẻ hơn
vào Việt Nam để bán cho người tiêu dùng, cho phép các doanh nghiệp nhận sản xuất
thuốc theo hợp đồng. Đề nghị Chính phủ khẩn trương ban hành văn bản về quản lý
giá thuốc.
III. MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ
Với các chính sách phát triển kinh tế
của Mỹ, Trung Quốc, EU và tình hình chính trị, kinh tế của nhiều nước trên thế
giới có thể thấy mặt bằng giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới năm 2004 có
nhiều biến động phức tạp tác động đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là đối với hoạt
động xuất nhập khẩu. Vì vậy, giá cả hàng hoá và dịch vụ thị trường trong nước
ngay từ những tháng đầu năm đã chịu ảnh hưởng lớn vì các nguyên liệu đầu vào của
sản phẩm sản xuất trong nước chủ yếu đều phải nhập khẩu. Những năm qua, sức mua
tuy đã được cải thiện nhiều song đời sống của đại đa số dân cư cũng đã gặp nhiều
khó khăn do biến động giá tăng. Để chủ động đối phó với tình hình, hạn chế tối
đa mọi tác động tiêu cực của tình hình thị trường thế giới đối với sự phát triển
của nền kinh tế trong nước, đề nghị Thủ tướng Chính phủ:
1. Ban hành văn bản sửa đổi Nghị định
65 về nhập khẩu phế liệu để tháo gỡ việc nhập thép phế, nhựa phế liệu... phục vụ
sản xuất trong nước.
2. Ban hành Nghị định về Quản lý giá
thuốc chữa bệnh cho người.
3. Ban hành Quy chế điều hành kinh
doanh phân bón 2004 - 2005.
4. Chính phủ cho xem xét việc điều chỉnh
giá dự toán XDCB do giá thép tăng để tháo gỡ tình hình trì tệ ách tắc tiến độ
thi công các công trình XDCB hiện nay, Bộ Công nghiệp sớm trình Chính phủ quy
chế điều hành sản xuất kinh doanh thép.
5. Yêu cầu các Bộ ngành, các Hiệp hội
và các Tổng công ty ngang hàng triển khai tổ chức tốt các nhiệm vụ theo chỉ đạo
của Phó Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 868/VPCP-KTTH ngày 26 tháng 2 năm
2004 của Văn phòng Chính phủ.
Kính trình Thủ tướng Chính phủ.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG
Phan Thế Ruệ
|