Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Báo cáo số 1352 TM/TTTN ngày 29/03/2004 của Bộ Thương mại về việc thị trường trong nước tháng 3/2004

Số hiệu 1352TM/TTTN
Ngày ban hành 29/03/2004
Ngày có hiệu lực 29/03/2004
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Thương mại
Người ký Phan Thế Ruệ
Lĩnh vực Thương mại

BỘ THƯƠNG MẠI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 1352 TM/TTTN

Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2004

 

THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC THÁNG 3/2004

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

I. TỔNG QUAN CHUNG

1. Diễn biến quan hệ cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết yếu trên thị trường thế giới

. Tháng 3/2004 quan hệ cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết yếu diễn biến phức tạp và luôn ở chiều hướng gia tăng, đặc biệt sản phẩm thép, dầu mỏ, hạt nhựa tăng mạnh: Dầu mỏ luôn biến động từ 35 - 38 USD/thùng, Thép từ 420 - 450 USD/tấn phôi, Hạt nhựa tăng 20 - 30USD/tấn so với tháng 2 năm 2004, urê từ 190 - 200 USD/tấn. Trong suốt quý I/2004 những mặt hàng này biến động theo chiều hướng cung đuối hơn cầu, giá đã ở mức tiêu thụ các sản phẩm này ở Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga và các nước Đông Bắc Âu vẫn gia tăng ảnh hưởng lớn đến giá cả thế giới (ví dụ: Trung Quốc Tiêu thụ 1/3 sản lượng thép thế giới, khoảng 300/900 triệu tấn, đứng thứ hai sau Hoa Kỳ về tiêu thụ xăng dầu và phân bón).

. Dự báo quan hệ cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu quý II/2004 vẫn dao động và đứng ở mức cao đặc biệt là thép, dầu mỏ (OPEC dự kiến cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng/ngày, Nga sẽ tăng thuế xuất khẩu dầu mỏ, Hoa Kỳ dự kiến mua tăng dự trữ xăng dầu, Nga hạn chế xuất khẩu phôi thép trong khi đó Trung Quốc có nhu cầu lớn). Dự báo, dầu mỏ giữa giá ở mức xấp xỉ 35 USD/thùng, thép 420-440 USD/tấn phôi, Urê ở mức 190 - 200 USD/tấn. Thời cơ như vậy thuận lợi cho các tập đoàn dầu mỏ, thép, các trung tâm bán buôn thế giới đầu cơ, khống chế thị trường, sẽ tác động tiêu cực đến thị trường Việt Nam (hiện nay ta phải nhập 90% nhu cầu thép, 100% nhu cầu xăng dầu, 92 - 93% nhu cầu Urê, 90% nguyên liệu thuốc chữa bệnh và nguyên liệu nhựa).

2. Tình hình thị trường trong nước tháng 3 và quý I/2004, dự báo quý II/2004

. Do tình hình biến động cung cầu, giá cả hầu hết các loại vật tư, nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh đã tác động trực tiếp đến tình hình trong nước suốt cả quý I/2004 mà cao điểm là từ giữa tháng 1 đến đầu tháng 3, giá thép XD cuối tháng 2 lên 8,7 triệu đến 9,3 triệu đồng/tấn; giá Urê 3.400 - 3.500 đồng/kg; giá xăng dầu bán theo giá định hướng của QĐ 187: xăng 6.000 đồng/lít, diezel 4.600 đồng/lít nhưng do giá nhập khẩu cao các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đều lỗ lớn. Do dịch cúm gà, thời tiết khô hạn, giá rét kéo dài ở miền Bắc, miền Trung ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung thực phẩm, đẩy giá tiêu dùng, giá thực phẩm lên cao vào dịp Tết Nguyên đán. Từ đầu tháng 3 đến nay giá thực phẩm, rau quả đã giảm dần, hàng tiêu dùng sản xuất bằng nguyên liệu trong nước giảm, hàng sản xuất bằng nguyên liệu nhập và hàng nhập khẩu vẫn giữ ở mức cao như thuốc chữa bệnh, sản phẩm thép, nhựa, phân Urê... Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ bán lẻ quý I/2004 đạt 88.000 tỷ đồng, tăng 15,4% cùng kỳ 2003, chỉ số giá tiêu dùng quý I/2004 tăng 4,9% so với tháng 12 năm 2003 (quý I/2003 là 2,5%) trong đó: nhóm dược phẩm và y tế tăng 4,3%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 4,4%, lương thực phẩm tăng 1,6%, vàng tăng 0,2%, USD tăng 0,5%. Từ khoảng 20/3 đến nay, giá lúa gạo tăng mạnh: ĐBSCL từ 1.600 - 1.700 đồng/kg lên 2.000 - 2.200 đồng/kg, đồng bằng Bắc Bộ 1.900 - 2.100 đồng/kg lên 2.500 - 2.7000 đồng/kg, giá mía cây tăng từ 220 - 250 đồng/kg lên 300 - 350 đồng/kg đã xảy ra tranh mua nguyên liệu mía giữa các nhà máy đường, và đã có xuất gạo qua biên giới Trung Quốc với số lượng không nhiều. Xuất khẩu hàng hoá tháng 3 ước đạt 1,9 tỷ USD tăng 11,7% so tháng 2/2004, 3 tháng 2004 ước đạt 5 tỷ 408 triệu USD tăng 15,1% so cùng kỳ 2003, nhập khẩu hàng hoá 6 tỷ 149 triệu USD, nhập siêu ước 741 triệu USD. Nguyên nhân:

- Giá thế giới tăng mạnh do nhu cầu tăng nhưng nguồn cung không tăng.

- Không kiểm soát được giá nhập khẩu, chi phí đầu vào của các nhà sản xuất như thép, thuốc chữa bệnh.

- Các nhà sản xuất, gia công chưa thiết lập mạng lưới phân phối, thường mua đứt bán đoạn cho các tổng đại lý, đại lý theo nhiều tầng nấc, các tổng đại lý gần như độc quyền phân phối tạo ra nhiều chi phí lưu thông bất hợp lý, tuỳ tiện đầy giá lên hoặc găm hàng chờ giá, đối với một số mặt hàng phải nhập nguyên liệu các tổng đại lý cũng nhập khẩu và bán cho nhà sản xuất tăng thêm chi phí đầu vào.

- Một số phương tiện thông tin khi đưa tin chưa chính xác gây tâm lý cho hệ thốn thương nhân và người tiêu dùng (sẽ tăng lương cho những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước).

. Dự báo quan hệ cung cầu, giá cả tháng 4 và quý II/2004 vẫn diễn biến theo chiều hướng giữ ở mức độ cao và có thể không tăng hơn tháng 3/2004, tuy nhiên giá cả các sản phẩm như dầu mỏ, thép, Urê vẫn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khó lường như nạn khủng bố thế giới, sự bất ổn ở khu vực Trung Đông, sự cắt giảm sản lượng dầu mỏ của OPEC, những chính sách hạn chế bán: tăng giá xuất khẩu phôi thép, mức độ mua dự trữ của Mỹ, mức độ tiêu thụ của Trung Quốc... giá thực phẩm, sản phẩm tiêu dùng thông thường sẽ giảm dần nhưng sẽ không trở lại ngay như ở mức trước tháng 12/2003.

II. MỘT SỐ MẶT HÀNG

1. Lương thực

Các tỉnh phía Bắc, do chủ động nguồn nước khắc phục được nạn hạn hán nên về cơ bản đã hoàn thành gieo cấy vụ Đông Xuân, đạt trên 1,1, triệu ha, hiện chỉ còn một số địa phương miền núi phía Bắc đang tiếp tục gieo cấy. Giá lúa gạo ĐBSCL, ĐB Bắc Bộ biến động tăng còn các tỉnh miền Trung và Đông Nam bộ, giá lương thực nhìn chung ổn định. Các tỉnh ĐBSCL đang thu hoạch rộ vụ lúa Đông Xuân 2003/2004, tính đến 15/3/2004 thu hoạch được 84,5% diện tích gieo trồng. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sản lượng lúa Đông Xuân ở ĐBSCL như sau:

Năm

Diện tích (ha)

Măng suất (Tấn/ha)

Sản lượng (Tấn)

2002 - 2003

1.500.272

5,68

8.518.790

2003 - 2004

1.445.769

5,74

8.298.732

Như vậy, lượng gạo dành cho xuất khẩu của vụ Đông Xuân ở mức khoảng 2,5 triệu tấn. Theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực, đến nay hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký đạt khoảng 2 triệu tấn, trong đó có 1,5 triệu tấn thời hạn giao hàng trong 6 tháng đầu năm 2004 (nhiều hợp đồng XK được ký trước tháng 1/2004 với giá thấp hơn hiện nay).

Tuy nguồn lương thực gia tăng và giá lúa, gạo tăng nhưng việc thu mua của các doanh nghiệp vẫn gặp không ít khó khăn do tình trạng tranh mua của các đơn vị xuất khẩu (nhất là mua gạo xuất khẩu tiểu ngạch), cùng với tâm lý găm giữ lúa, gạo của nông dân (với hy vọng giá còn tăng) đã tác động tới giá lúa, gạo tiếp tục tăng từ 100 - 200đ/kg tại nhiều nơi với mức phổ biến: lúa tẻ từ 2.000 - 2.200 đ/kg (lúa chất lượng cao ở mức cao hơn); gạo tẻ từ 3.100 - 3.200 đ/kg, gạo thành phẩm 5% tấm không bao tại mạn khoảng 3.180 - 3.250 đ/kg; 25% tấn khoảng 2.8500 - 3.050 đ/kg.

Trước tình hình trên, theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Thương mại đã có văn bản đề nghị các ngành, và các lực lượng chức năng phối hợp kiểm tra, xử lý gian lận thương mại trong kinh doanh lúa, gạo. Dự báo thời gian tới giá lương thực khả năng còn tiếp tục tăng, đề nghị các doanh nghiệp giãn tiến độ thời gian giao hàng và thận trọng đối với việc xuất khẩu gạo tiểu ngạch sang biên giới phía Bắc vì Trung Quốc sẽ quản lý nhập gạo bằng hạn ngạch nhu đối với cao su.

Nhu cầu nhập khẩu gạo năm 2004 tăng, đặc biệt tăng mạnh từ Trung Quốc và một số nước Trung Mỹ. Tại Thái Lan, Chính phủ vẫn can thiệp vào thị trường thóc gạo nên giá gạo xuất khẩu của Thái Lan tiếp tục tăng: gạo 100% B từ 227 USD/T tăng lên 253 USD/T; 5% tấm từ 220 USD/T tăng lên 246 USD/T; 25% tấm 204 USD/T tăng lên 233 USD/T. Giá chào gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng: gạo 5% tấm từ 205 USD/T tăng lên 223 USD/T; 25% tấm từ 193 USD/tăng lên 223 USD/T (cùng thời điểm này năm 2003: 5% tấm là 174 USD/T; 25% tấm là 162 USD/T). Ước xuất khẩu gạo 3 tháng đầu năm 2004 đạt khoảng 808.000 tấn, giám 23,7% về lượng nhưng lại tăng 6,1% về trị giá so với cùng kỳ vì giá gạo tăng gần 27%.

2. Mía đường

Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 28/2004/QĐ-TTg ngày 4 tháng 3 năm 2004 về Tổ chức lại sản xuất và thực hiện một số giải pháp xử lý khó khăn đối với các nhà máy và công ty đường. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang triển khai thực hiện quyết định. này.

Nhu cầu tiêu thụ đường nhìn chung ở mức bình thường, ước tồn kho cuối tháng 3/2004 khoảng 287.000 tấn, nhưng giá đường trên thị trường trong tháng bắt đầu tăng 300-600 đ/kg do nhiều nhà máy ở phía Nam, nhất là các nhà máy đường ở miền Đông Nam bộ thiếu nguyên liệu đã ngừng hoạt động. Phổ biến trên thị trường, giá đường RS là 5.300 đ/kg, RE là 5,600 đ/kg, trong đó đường tinh luyện Biên Hoà ở mức 6.4000 đ/kg - là mức cao nhất trong 2 năm qua. Dự báo thời gian tới giá đường còn tiếp tục tăng, do mùa hè đến, nhưng mức tăng không cao, nếu tăng mạnh đường nhập lậu có nguy cơ tràn vào thị trường trong nước.

Trên thị trường đường thế giới, tại Luân Đôn đường trắng giao tháng 5 từ 2004 USD/T tăng lên 213 USD/T (17/3). Dự báo giá đường thế giới vụ 2003/2004 sẽ không giảm ở mức thấp như vụ 2002/2003, vì mức du thừa cung đường trên thị trường năm nay thấp hơn so với năm trước (dự báo sản lượng thế giới vụ 2003/2004 vượt mức tiêu thụ chỉ 514.000 tấn, trong khi dư thừa vụ 2002/2003 là 6,92 triệu tấn).

3. Phân bón

Từ đầu năm 2004 đến nay, giá phân bón thế giới tăng giảm thất thường. Trong tháng 3/2004, tại Châu Á nguồn cung có phần dồi dào hơn, giá phân urê giảm nhẹ. Hiện nay giá urê bao nhập khẩu của Trung Quốc khoảng 195 - 198 USD/T.

Quý I/2004 ước nhập khẩu 910.000 tấn phân các loại (chỉ tăng 0,8% về lượng nhưng tăng tới 27,6% về trị giá so với cùng kỳ), trong đó có khoảng 513.000 tấn Urê (tăng 14,3% về lượng và tăng tới 56,9% về trị giá so với cùng kì).

[...]