Luật Đất đai 2024

Thông tư liên tịch 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC hướng dẫn khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất do Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tổng cục địa chính ban hành

Số hiệu 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC
Cơ quan ban hành Tòa án nhân dân tối cao,Tổng cục Địa chính,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Ngày ban hành 28/07/1997
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Bất động sản,Thủ tục Tố tụng
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Người ký Chu Văn Thỉnh,Nguyễn Thị Tuyết,Trịnh Hồng Dương
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-TỔNG CỤC ĐỊA CHÍNH-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC

Hà Nội , ngày 28 tháng 7 năm 1997

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH

CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO, TỔNG CỤC ĐỊA CHÍNH SỐ 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC NGÀY 28 THÁNG 7 NĂM 1997 HƯỚNG DẪN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 3 ĐIỀU 38 LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 1993

Hiện nay, các tranh chấp về quyền sử dụng đất hết sức đa dạng và phức tạp. Luật Đất đai năm 1993 có quy định thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết các tranh chấp này. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành, nhiều địa phương vẫn chưa xác định rõ thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc thụ lý giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất. Để xác định đúng thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính thống nhất hướng dẫn như sau:

I- VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN

Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 quy định: "Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết". Như vậy, theo quy định này, thì Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

1. Người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.

Theo quy định tại Điều 36 Luật Đất đai năm 1993, thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là giấy do Cơ quan quản lý đất đai ở trung ương (cụ thể là Tổng cục Địa chính) phát hành theo Luật Đất đai năm 1993 (thường gọi là bìa đỏ) và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất. Như vậy, không phân biệt đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở..., nếu có tranh chấp quyền sử dụng đất, mà đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền.

2. Người sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), nhưng có tranh chấp tài sản (nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm) gắn liền với việc sử dụng đất đó.

Khi giải quyết loại tranh chấp này, cần phải phân biệt các trường hợp sau:

a) Trong trường hợp đương sự đã có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án giải quyết cả tranh chấp về tài sản và quyền sử dụng đất.

b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và thuộc trường hợp có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số 45/CP ngày 3-8-1996 của Chính phủ "Về việc bổ sung Điều 10 của Nghị định số 60/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất tại đô thị hoặc theo tinh thần Công văn số 1427 CV/ĐC ngày 13-10-1995 của Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn xử lý một số vấn đề đất đai để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất"..., thì Toà án giải quyết tranh chấp về tài sản, đồng thời phân định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai và theo quyết định của Toà án,

c- Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ, việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, tài sản không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về tài sản.

II- VỀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA TOÀ ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN

1. Khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cần có sự phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân và cơ quan Địa chính để giải quyết theo đúng các quy định của Luật Đất đai, của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật.

2- Trong trường hợp Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có văn bản yêu cầu, thì trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Uỷ ban nhân dân, cơ quan Địa chính có trách nhiệm cung cấp cho Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các tài liệu địa chính, các tài liệu có liên quan hoặc xác nhận việc sử dụng đất của đương sự. Trong văn bản xác nhận việc sử dụng đất của đương sự, Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cần cho biết rõ là việc sử dụng đất của đương sự thuộc trường hợp nào trong các trường hợp đã được nêu tại các điểm a, b, c khoản 2 phần I Thông tư này. Ngoài ra, cơ quan Địa chính có trách nhiệm giúp Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân xác minh các tình tiết có liên quan đến quyền sử dụng đất, đo lại diện tích đất khi cần thiết...

3. Khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, nếu phát hiện các hành vi vi phạm Luật Đất đai, thì Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định tại các điều 85, 86 Luật Đất đai nhằm giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất đai.

4. Trong trường hợp nhận thấy bản án, quyết định của Toà án không phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai, thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền, cơ quan Địa chính có quyền kiến nghị với Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân để xem xét theo pháp luật.

III- HƯỚNG DẪN VỀ HIỆU LỰC CỦA THÔNG TƯ

1. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15-8-1997.

2. Đối với các vụ án mà Toà án đã thụ lý, nhưng không đúng thẩm quyền theo hướng dẫn tại Thông tư này và chưa giải quyết song, thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án và chuyển hồ sơ vụ kiện cho Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết, đồng thời hướng dẫn cho đương sự là họ có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của họ.

3. Đối với những vụ án mà Toà án đã thụ lý đúng thẩm quyền, nhưng chưa giải quyết hoặc đã được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng bản án, quyết định đã bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày thông tư này có hiệu lực thi hành và chưa giải quyết xong, thì áp dụng thông tư này để giải quyết.

4. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành và vụ án đã được giải quyết đúng theo các hướng dẫn trước đây, thì không áp dụng Thông tư này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Trong quá trình thực hiện Thông tư này nếu có gì vướng mắc thì cần báo cáo cho Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính để có hướng dẫn kịp thời.

Chu Văn Thỉnh

(Đã ký)

Trịnh Hồng Dương

(Đã ký)

Nguyễn Thị Tuyết

(Đã ký)

 

49
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Thông tư liên tịch 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC hướng dẫn khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất do Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tổng cục địa chính ban hành
Tải văn bản gốc Thông tư liên tịch 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC hướng dẫn khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất do Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tổng cục địa chính ban hành
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Thông tư liên tịch 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC hướng dẫn khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất do Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tổng cục địa chính ban hành
Số hiệu: 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC
Loại văn bản: Thông tư liên tịch
Lĩnh vực, ngành: Bất động sản,Thủ tục Tố tụng
Nơi ban hành: Tòa án nhân dân tối cao,Tổng cục Địa chính,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký: Chu Văn Thỉnh,Nguyễn Thị Tuyết,Trịnh Hồng Dương
Ngày ban hành: 28/07/1997
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Mục này được hướng dẫn bởi Công văn 92/KHXX năm 1997 có hiệu lực từ ngày 08/8/1997
Để xác định đúng thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh cấp quyển sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28/7/1997 "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993" (sau đây gọi tắt là Thông tư). Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/8/1997.

Như vậy, kể từ ngày 15/8/1997, các Toà án nhân dân các cấp căn cứ vào các hướng dẫn tại Thông tư này để thụ lý và giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Để thống nhất cách hiểu và áp dụng đúng tinh thần các hướng dẫn tại Thông tư này, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân các cấp một số điểm như sau:

1. Trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất (kể cả đất có tài sản mà họ không tranh chấp tài sản), thì trước khi thụ lý, Toà án phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ) hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn... nơi có đất (là đối tượng tranh chấp quyền sử dụng đất) về việc đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ). Chỉ sau khi có một trong hai loại giấy nêu trên để xác định chắc chắn là đối với đất đó (đang là đối tượng tranh chấp) đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án mới thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền như đã được hướng dẫn tại khoản 1 phần I Thông tư. Nếu đương sự không xuất trình được một trong hai loại giấy nêu trên, thì Toà án không thụ lý để giải quyết, trừ trường hợp họ thay đổi yêu cầu thành việc tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.

2. Trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất hoặc họ thay đổi yêu cầu thành việc tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất như đã nêu ở trên, thì về nguyên tắc, Toà án phải thụ lý để giải quyết tranh chấp tài sản. Tuy nhiên, để giải quyết cả tranh chấp quyền sử dụng đất theo yêu cầu của người khởi kiện và để không ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ kiện, thì trước khi thụ lý, Toà án phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 (bìa đỏ) hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền về việc sử dụng đất đó thuộc trường hợp nào trong các trường hợp đã được nêu tại các điểm a, b, c khoản 2 phần I Thông tư. Nếu người khởi kiện chưa có một trong các loại giấy nêu trên, Toà án cần giải thích cho họ để họ đến Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xin giấy xác nhận việc sử dụng đất (là đối tượng tranh chấp) thuộc trường hợp nào trong các trường hợp được nêu trong các điểm a, b, c khoản 2 phần I Thông tư.

Đối với những vụ tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất mà Toà án đã thụ lý, thì Toà án có thể làm văn bản yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất của đương sự theo hướng dẫn tại khoản 2 phần II Thông tư.

Tuỳ thuộc nội dung xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền mà Toà án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo hướng dẫn tại các điểm a, b, khoản 2 phần II Thông tư hoặc không giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất mà chỉ giải quyết tranh chấp tài sản theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 phần I Thông tư.

Trong quá trình thực hiện Thông tư và hướng dẫn tại Công văn này, nếu có gì vướng mắc hoặc phát hiện những vấn đề mới phát sinh, thì cần báo cáo bằng văn bản cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.

Xem nội dung VB
I- VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN

Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 quy định: "Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết". Như vậy, theo quy định này, thì Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

1. Người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.

Theo quy định tại Điều 36 Luật Đất đai năm 1993, thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là giấy do Cơ quan quản lý đất đai ở trung ương (cụ thể là Tổng cục Địa chính) phát hành theo Luật Đất đai năm 1993 (thường gọi là bìa đỏ) và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất. Như vậy, không phân biệt đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở..., nếu có tranh chấp quyền sử dụng đất, mà đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền.

2. Người sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), nhưng có tranh chấp tài sản (nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm) gắn liền với việc sử dụng đất đó.

Khi giải quyết loại tranh chấp này, cần phải phân biệt các trường hợp sau:

a) Trong trường hợp đương sự đã có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án giải quyết cả tranh chấp về tài sản và quyền sử dụng đất.

b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và thuộc trường hợp có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số 45/CP ngày 3-8-1996 của Chính phủ "Về việc bổ sung Điều 10 của Nghị định số 60/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất tại đô thị hoặc theo tinh thần Công văn số 1427 CV/ĐC ngày 13-10-1995 của Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn xử lý một số vấn đề đất đai để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất"..., thì Toà án giải quyết tranh chấp về tài sản, đồng thời phân định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai và theo quyết định của Toà án,

c- Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ, việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, tài sản không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về tài sản.
Mục này được hướng dẫn bởi Công văn 92/KHXX năm 1997 có hiệu lực từ ngày 08/8/1997