Luật Đất đai 2024

Nghị định 76/2003/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

Số hiệu 76/2003/NĐ-CP
Cơ quan ban hành Chính phủ
Ngày ban hành 27/06/2003
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Vi phạm hành chính,Giáo dục,Văn hóa - Xã hội
Loại văn bản Nghị định
Người ký Phan Văn Khải
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 76/2003/NĐ-CP

Hà Nội, ngày 27 tháng 6 năm 2003

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 76/2003/NĐ-CP NGÀY 27 THÁNG 6 NĂM 2003 QUY ĐỊNH VÀ HƯỚNG DẪN CỤ THỂ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị định này quy định cụ thể về đối tượng; trình tự, thủ tục đưa người vào cơ sở giáo dục; tổ chức cơ sở giáo dục; chế độ quản lý người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục và những quy định khác có liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 2. Đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đưa vào cơ sở giáo dục là biện pháp xử lý hành chính nhằm giúp đỡ, giáo dục người có hành vi vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 3 Nghị định này có điều kiện học văn hoá, học nghề, lao động và sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục để sửa chữa lỗi lầm, sớm trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội.

2. Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.

Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là từ sáu tháng đến hai năm.

Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong một năm), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

d) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đ) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

2. Không đưa vào cơ sở giáo dục người chưa đủ 18 tuổi; người trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam.

Thời điểm tính độ tuổi nêu trên là ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; căn cứ pháp lý để xác định độ tuổi là giấy khai sinh, nếu không có giấy khai sinh thì phải căn cứ vào giấy chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu.

3. Các trường hợp sau đây thì không ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc không bắt họ tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà chuyển hồ sơ để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với họ theo quy định của pháp luật:

a) Người đã bị lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng đến ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thì họ đã trên 55 tuổi đối với nữ hoặc trên 60 tuổi đối với nam;

b) Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng chưa chấp hành mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại đã trên 55 tuổi đối với nữ hoặc trên 60 tuổi đối với nam.

4. Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người không có Quốc tịch Việt Nam, người mang hộ chiếu nước ngoài.

Điều 4. Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là một năm, kể từ khi đối tượng bị áp dụng biện pháp này thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này.

Nếu trong thời hạn nêu trên, người có hành vi vi phạm cố tình trốn tránh thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu được tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Điều 5. Nguyên tắc xử lý

1. Mọi hành vi vi phạm hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

2. Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải bảo đảm đúng người, đúng hành vi vi phạm, đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định này.

Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Khi quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải căn cứ vào quy định của pháp luật; căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, nhân thân của người vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hành chính để quyết định cho phù hợp.

4. Người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải học tập, lao động và sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục để trở thành công dân có ích cho xã hội.

5. Người đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tạo điều kiện hoà nhập với cộng đồng để làm ăn, sinh sống lương thiện; khi có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính thì được coi như chưa bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 6. Thành lập và quản lý cơ sở giáo dục

1. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước.

Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Trường hợp địa phương có nhiều đối tượng thuộc diện cần áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập phương án đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục tại địa phương mình.

2. Cơ sở giáo dục được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công an, nhằm bảo đảm phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục trại viên và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường.

3. Bộ Công an thống nhất quản lý các cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc tổ chức, quản lý các cơ sở giáo dục.

Điều 7. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Kinh phí bảo đảm cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục; cho việc lập, xét duyệt hồ sơ; cho việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, truy tìm đối tượng bỏ trốn; cho ăn, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên do ngân sách nhà nước cân đối, bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

2. Cơ sở giáo dục được tiếp nhận sự tài trợ, giúp đỡ về vật chất của các tổ chức, cá nhân; được tham gia hợp đồng, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế theo quy định của pháp luật để tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của cơ sở giáo dục.

Điều 8. Giải thích từ ngữ

Trong Nghị định này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Trại viên là người đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại cơ sở giáo dục.

2. Người đang ốm nặng là người đang ở trong tình trạng bị bệnh nặng đến mức không còn khả năng lao động và sinh hoạt bình thường hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và theo chỉ định của bác sĩ phải điều trị trong một thời gian nhất định mới có thể bình phục trở lại.

3. Người mắc bệnh hiểm nghèo là người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong hủi, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế coi là bệnh hiểm nghèo.

4. Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt là các trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là người lao động duy nhất để đảm bảo cuộc sống gia đình; gia đình bị thiên tai, hoả hoạn lớn hoặc có thân nhân bị ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà ngoài người đó ra không còn ai khác để khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn hoặc chăm sóc người bệnh.

Chương 2:

THỦ TỤC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, có nơi cư trú nhất định và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xem xét, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gồm có bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; văn bản về các biện pháp giáo dục đã được áp dụng; nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan.

2. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; bản trích lục án và các biện pháp giáo dục đã bị áp dụng (nếu có).

3. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đưa họ vào cơ sở giáo dục.

4. Công an các cấp có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

5. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải giao hồ sơ cho cơ quan Công an cùng cấp để xác minh, thẩm tra hồ sơ. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm xác minh, thẩm tra hồ sơ, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận báo cáo xác minh, thẩm tra của cơ quan Công an, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng tư vấn.

6. Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện thụ lý, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo quy định tại khoản 2 Điều này thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

7. Trong trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục thì cơ quan Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ gửi Hội đồng tư vấn để xem xét, giải quyết theo thủ tục chung quy định tại Nghị định này.

Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.

Điều 11. Chuyển hồ sơ của đối tượng có dấu hiệu phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự

Khi xem xét hồ sơ của đối tượng để đề xuất hoặc quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nếu xét thấy các hành vi vi phạm của người đó có dấu hiệu của tội phạm thì người có thẩm quyền phải làm công văn và chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự.

Điều 12. Xử lý trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh

Trong trường hợp một người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Cơ quan đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ đó cho Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh để tiến hành các thủ tục đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

Điều 13. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.

3. Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.

Điều 14. Thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người phải chấp hành quyết định vào cơ sở giáo dục.

Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi cơ sở giáo dục.

Khi nhận được quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp tỉnh trong việc đảm bảo thi hành quyết định đó.

2. Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục trước khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục thì Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 05 ngày để tiến hành các thủ tục cần thiết.

Thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục.

Công an cấp tỉnh phải bố trí nơi giành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp tỉnh.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trong trường hợp này.

3. Khi đưa người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo; hồ sơ gồm có:

a) Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

c) Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

d) Những tài liệu cần thiết khác có liên quan đến nhân thân của người phải chấp hành quyết định và để phục vụ cho việc quản lý, giáo dục người đó (nếu có).

4. Khi tiếp nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ, căn cước, chứng minh nhân dân và giấy tờ tùy thân khác của người đó và lập biên bản giao nhận, ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ, tình trạng sức khoẻ hiện tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.

Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.

Điều 16. Thời hiệu thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hết thời hiệu thi hành sau một năm, kể từ ngày ra quyết định. Trường hợp người bị đưa vào cơ sở giáo dục cố tình trốn tránh việc thi hành thì thời hiệu nêu trên được tính lại kể từ thời điểm hành vi trốn tránh được chấm dứt.

Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà bỏ trốn trước khi được đưa vào cơ sở thì Trưởng Công an cấp huyện nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ ra quyết định truy tìm.

2. Trường hợp trại viên cơ sở giáo dục bỏ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định truy tìm. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.

3. Cơ quan đã ra quyết định truy tìm có trách nhiệm tổ chức truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn. Khi tiến hành bắt giữ, nếu đối tượng có hành vi chống đối thì được áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định tại Điều 15 Nghị định này để buộc người đó phải chấp hành.

Uỷ ban nhân dân và Công an các cấp có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ các cơ quan nói trên trong việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.

Khi phát hiện đối tượng có quyết định truy tìm, mọi người đều có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan Công an, Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất hoặc bắt và dẫn giải ngay đối tượng đến các cơ quan nói trên.

4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.

Điều 18. Hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng có chứng nhận của Trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên;

b) Đang mang thai có chứng nhận của Trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có đơn đề nghị và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận;

c) Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt, có đơn đề nghị và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Khi hết thời hạn được hoãn hoặc khi điều kiện hoãn không còn thì quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tiếp tục thi hành ngay.

2. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang mắc bệnh hiểm nghèo, có chứng nhận của bệnh viện hoặc Trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội;

b) Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công trong thời gian được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục. Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Giám đốc Công an cùng cấp thẩm tra, xác minh các trường hợp cụ thể quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trước khi ra quyết định.

Chương 3:

TỔ CHỨC CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ QUẢN LÝ TRẠI VIÊN

Điều 19. Tổ chức cơ sở giáo dục

1. Tổ chức, bộ máy của cơ sở giáo dục gồm có Giám đốc, các Phó giám đốc, cán bộ quản lý, giáo dục, dạy văn hoá, dạy nghề; cán bộ hậu cần, kỹ thuật, y tế và lực lượng Cảnh sát bảo vệ.

2. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc, Phó giám đốc cơ sở giáo dục; quyết định biên chế và tổ chức bộ máy của cơ sở giáo dục do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.

Quy mô mỗi cơ sở giáo dục quản lý từ 500 đến 2.500 trại viên. Cơ sở giáo dục có trên 1.000 trại viên có thể thành lập các phân khu theo quy định của Bộ Công an.

Điều 20. Giám đốc, Phó giám đốc cơ sở giáo dục

1. Giám đốc cơ sở giáo dục là người đứng đầu cơ sở giáo dục và phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ sở giáo dục.

2. Phó giám đốc là người giúp Giám đốc thực hiện những nhiệm vụ theo sự phân công của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công.

Điều 21. Tiêu chuẩn của Giám đốc, Phó giám đốc và cán bộ, nhân viên cơ sở giáo dục

1. Giám đốc, Phó giám đốc, cán bộ quản lý, giáo dục, cán bộ hậu cần, y tế và Cảnh sát bảo vệ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật.

2. Giám đốc, Phó giám đốc phải là người tốt nghiệp một trong các trường: Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, Đại học Luật, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Sư phạm và phải có kinh nghiệm về quản lý, giáo dục những người vi phạm pháp luật.

3. Cán bộ quản lý, giáo dục, cán bộ dạy văn hoá, dạy nghề và chỉ huy lực lượng Cảnh sát bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp Trung học Cảnh sát, Trung học An ninh hoặc tương đương trở lên.

4. Sĩ quan, chiến sĩ Cảnh sát làm nhiệm vụ quản lý, dẫn giải, bảo vệ phải là những người đã được đào tạo, huấn luyện về nghiệp vụ chuyên ngành theo quy định của Bộ Công an.

Điều 22. Điều chuyển trại viên

Để phù hợp với quy mô quản lý trại viên của các cơ sở giáo dục hoặc do yêu cầu nghiệp vụ, Cục trưởng Cục quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng có thể ra quyết định điều chuyển trại viên từ cơ sở giáo dục này sang cơ sở giáo dục khác theo quy định của Bộ Công an.

Điều 23. Trích xuất trại viên

1. Trích xuất trại viên là việc tạm thời đưa trại viên ra khỏi cơ sở giáo dục theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền để họ tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó. Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Khi có yêu cầu trích xuất, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có công văn gửi Giám đốc cơ sở giáo dục, trong đó phải ghi rõ họ, tên người cần trích xuất, lý do và thời hạn trích xuất. Căn cứ vào công văn yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất trại viên. Quyết định trích xuất trại viên phải ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người được trích xuất; cơ quan yêu cầu trích xuất, mục đích và thời hạn trích xuất, cấp bậc, chức vụ của người ký trích xuất.

3. Cơ quan có yêu cầu trích xuất chịu trách nhiệm đưa người có quyết định trích xuất đi và trả lại cho cơ sở giáo dục theo đúng thời hạn đã ghi trong quyết định trích xuất. Khi giao nhận người theo quyết định trích xuất phải lập biên bản theo đúng quy định.

Điều 24. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Trường hợp người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà sau đó phát hiện hành vi vi phạm đó có dấu hiệu tội phạm và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì giải quyết như sau:

a) Trường hợp chưa chấp hành quyết định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hủy quyết định đưa vào cơ sở giáo dục và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày hủy quyết định, phải chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Nếu sau đó hành vi này của đối tượng có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc Tòa án tuyên không phạm tội thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chuyển lại hồ sơ của đối tượng cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để xem xét, ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó.

b) Trường hợp người đó đang chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đối với người đó và chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa họ vào cơ sở giáo dục để biết.

Nếu sau đó hành vi của đối tượng có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc Tòa án tuyên không phạm tội thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chuyển lại hồ sơ của đối tượng cho cơ sở giáo dục để họ tiếp tục chấp hành quyết định.

Trường hợp đối tượng bị áp dụng một trong các hình phạt được quy định trong Bộ Luật Hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng đã nhận hồ sơ và đối tượng trước đó phải thông báo bằng văn bản cho cơ sở giáo dục biết cụ thể về loại hình phạt, thời hạn bị áp dụng, nơi chấp hành bản án và những nội dung khác có liên quan. Đồng thời phải thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi trước đó đã ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục để hủy quyết định đưa vào cơ sở giáo dục đối với họ.

Trường hợp đối tượng bị áp dụng hình phạt tù thì thời gian đã chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Hai ngày chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được tính bằng một ngày chấp hành hình phạt tù.

2. Trường hợp phát hiện người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục đã thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định thì giải quyết như sau:

Trường hợp chưa chấp hành quyết định thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó và chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Trường hợp người đó đang chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đối với người đó và chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Nếu sau đó, đối tượng bị áp dụng hình phạt tù thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù hoặc là hình phạt tù có thời hạn, nhưng được hưởng án treo thì người đó vẫn có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 25. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục

1. Trại viên đã chấp hành được một nửa thời hạn nêu trong quyết định, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm thời hạn chấp hành từ 01 tháng đến 06 tháng hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

Trong thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, mỗi người chỉ được giảm 1 lần; trường hợp trại viên đã được giảm thời hạn nhưng sau đó lại lập công thì có thể được xét giảm lần thứ 2.

2. Trong trường hợp trại viên bị ốm nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; thời gian tạm đình chỉ được tính vào thời hạn chấp hành quyết định; nếu sau khi sức khoẻ được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ 03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành tại cơ sở giáo dục.

Trại viên là phụ nữ có thai thì được tạm đình chỉ thi hành quyết định cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Trại viên bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

3. Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng quyết định việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở giáo dục. Quyết định này phải được gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.

4. Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ và miễn chấp hành quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này.

Điều 26. Hết hạn chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Khi người bị đưa vào cơ sở giáo dục đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục cấp giấy chứng nhận cho người đó và gửi bản sao Giấy chứng nhận đến Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong trường hợp người đã chấp hành xong quyết định mà vẫn chưa thực sự tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi cơ quan Công an cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong thời hạn 05 ngày, kể từ khi về địa phương, người đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục phải đến trình diện Công an xã, phường, thị trấn nơi họ về cư trú.

2. Người đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục được nhận lại tiền, vật gửi lưu ký tại cơ sở (nếu có); được cơ sở giáo dục cấp tiền tàu xe, tiền ăn đường và một bộ quần áo thường (nếu họ không có) để trở về nơi cư trú và phải trả lại những vật dụng, trang thiết bị dùng cho lao động, học tập, sinh hoạt đã được cơ sở giáo dục cho mượn, nếu làm mất hoặc hư hỏng thì phải bồi thường.

Chương 4:

CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI TRẠI VIÊN

Điều 27. Chế độ quản lý trại viên

1. Trại viên phải lao động, học tập và sinh hoạt dưới sự quản lý, giám sát của cơ sở giáo dục.

Căn cứ vào số lượng trại viên, thời hạn giáo dục, đặc điểm nhân thân, tính chất, mức độ vi phạm, tình trạng sức khoẻ, giới tính, lứa tuổi của từng loại đối tượng, Giám đốc cơ sở giáo dục có biện pháp tổ chức quản lý, giáo dục đối với họ cho phù hợp, theo quy định của Bộ Công an.

2. Trại viên được bố trí ở buồng tập thể theo đội, tổ hoặc nhóm phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục từng loại đối tượng.

Trại viên được bố trí giường (hoặc sàn nằm), có chiếu, màn, tấm đắp; chỗ nằm của mỗi trại viên tối thiểu là 2,5 m2. Khu vực ở của nam, nữ tách riêng.

3. Trại viên được mang vào cơ sở giáo dục những đồ dùng cá nhân thiết yếu để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.

Điều 28. Chế độ ăn, mặc

1. Mỗi năm, mỗi trại viên được cấp 02 bộ quần áo dài, 02 bộ quần áo lót, 02 khăn mặt, 01 đôi dép, 01 bàn chải đánh răng, 01 áo mưa, 01 chiếc mũ che mưa nắng; mỗi quý được cấp 01 hộp kem đánh răng, 0,6 kg xà phòng; 02 năm được cấp 01 chăn, 01 màn; đối với những vùng rét phía bắc, trại viên được cấp thêm 01 áo ấm và 01 chăn bông dùng trong 02 năm.

Trại viên là phụ nữ được cấp tiền vệ sinh cá nhân mỗi tháng tương đương với 02 kg gạo tính theo giá thị trường của từng địa phương.

2. Định mức ăn hàng tháng của trại viên được quy định như sau: gạo 15 kg, thịt hoặc cá 0,8 kg, đường 0,3 kg, muối 0,5 kg, nước mắm 01 lít, rau xanh 15 kg, chất đốt 15 kg củi hoặc tương đương. Ngày lễ, ngày Tết dương lịch được ăn thêm không quá 03 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết Nguyên đán được ăn thêm không quá 05 lần tiêu chuẩn ngày thường. Đối với những người lao động nặng hoặc trong môi trường độc hại, định lượng ăn trong tháng có thể tăng thêm theo quy định của pháp luật. Các tiêu chuẩn ăn được tính theo giá thị trường của từng địa phương.

3. Chế độ ăn, nghỉ đối với trại viên bị bệnh do Giám đốc cơ sở giáo dục quyết định theo chỉ định của cơ quan y tế.

Điều 29. Chế độ sinh hoạt, học tập

1. Trại viên được hoạt động thể dục thể thao, văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí; được đọc sách, báo, nghe đài, nghe phổ biến thời sự, chính sách, được xem vô tuyến truyền hình theo quy định của Bộ Công an.

2. Trại viên được học văn hoá để xoá mù chữ mỗi tuần 2 buổi, mỗi buổi 4 giờ. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cơ sở giáo dục, Giám đốc có thể sắp xếp thời gian học văn hoá cho những đối tượng khác.

3. Trại viên được học các chương trình giáo dục công dân mỗi tuần một buổi, mỗi buổi 4 giờ.

4. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, cơ sở giáo dục, có thể bố trí cho trại viên lao động kết hợp với học những nghề phù hợp.

5. Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chương trình học tập và đào tạo, bố trí giáo viên dạy văn hoá, dạy nghề cho các cơ sở giáo dục.

Điều 30. Chế độ lao động

1. Trại viên lao động mỗi ngày 8 giờ, được nghỉ các ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, ngày Tết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp có công việc đột xuất, Giám đốc cơ sở có thể yêu cầu trại viên lao động thêm giờ nhưng cũng không quá 2 giờ trong một ngày và phải được nghỉ bù.

2. Trại viên phải hoàn thành định mức lao động được giao. Ngoài giờ lao động hàng ngày theo quy định, cơ sở giáo dục có thể cho phép trại viên lao động thêm để cải thiện đời sống theo nguyện vọng của họ nhưng phải theo đúng quy định của pháp luật.

3. Đối với những công việc mà pháp luật quy định phải có bảo hộ lao động thì cơ sở giáo dục có trách nhiệm trang bị quần áo, thiết bị bảo hộ lao động phù hợp với yêu cầu của công việc. Trường hợp làm ca đêm, làm việc ngoài giờ theo yêu cầu đột xuất, làm việc trong các điều kiện độc hại hoặc công việc nặng nhọc thì được bồi dưỡng theo quy định.

4. Trường hợp trại viên bị tai nạn lao động thì cơ sở giáo dục phải tổ chức cứu chữa kịp thời và làm các thủ tục cần thiết để giải quyết chế độ trợ cấp theo quy định của pháp luật.

Điều 31. Quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục

1. Cơ sở giáo dục quản lý thống nhất kết quả lao động của cơ sở mình để chi phí cho việc khám, chữa bệnh, bù đắp một phần cho chi phí ăn uống, sinh hoạt của trại viên, khen thưởng cho trại viên có thành tích trong lao động và học tập; để bổ sung cho quỹ phúc lợi của cơ sở; đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục; chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ của cơ sở giáo dục có thành tích trong tổ chức quản lý sản xuất.

Trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao, sẽ được sử dụng một phần kết quả vượt chỉ tiêu đó.

2. Bộ Công an quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục.

Điều 32. Chế độ khám, chữa bệnh và giải quyết trường hợp trại viên bị chết

1. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục tổ chức khám sức khoẻ và có biện pháp phòng bệnh cho trại viên. Tiền thuốc, khám, chữa bệnh thường xuyên hàng tháng cho mỗi trại viên được cấp tương đương với 02kg gạo theo giá thị trường của từng địa phương.

Trường hợp trại viên bị bệnh, thì căn cứ vào chỉ định của cán bộ y tế, Giám đốc cơ sở giáo dục xét cho họ tạm nghỉ lao động, học tập hoặc giảm định mức, giảm giờ lao động trong thời gian bị bệnh; trường hợp cần thiết thì cho điều trị tại bệnh xá của cơ sở hoặc cho đi bệnh viện; trường hợp ốm nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì Giám đốc cơ sở giáo dục báo cáo Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.

2. Trường hợp trại viên bị chết thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân gần nhất đến lập biên bản xác nhận nguyên nhân chết, có trại viên cùng cơ sở giáo dục làm chứng, đồng thời, phải gửi giấy báo tử cho gia đình người chết biết và thông báo cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi trước đây họ cư trú.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức mai táng tử thi; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Trong trường hợp thân nhân người chết có đơn đề nghị đưa tử thi về mai táng thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể quyết định cho họ đưa tử thi về mai táng.

Đơn đề nghị đưa tử thi về mai táng phải có xác nhận Uỷ ban nhân dân cấp xã và phải cam đoan thực hiện đúng các quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường.

Điều 33. Chế độ thăm gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà

1. Trại viên được gặp người thân mỗi tháng 02 lần, mỗi lần không quá 2 giờ tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục và phải chấp hành đúng những quy định về thăm gặp. Trường hợp gặp lâu hơn thì phải được sự đồng ý của Giám đốc cơ sở giáo dục, nhưng cũng không quá 4 giờ.

Trại viên có nhiều cố gắng trong lao động, học tập, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể cho gặp vợ hoặc chồng đến 48 giờ và được ở lại qua đêm tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục.

2. Người đến thăm trại viên phải có giấy chứng minh nhân dân, đơn xin thăm, nếu là vợ hoặc chồng đến thăm và được nghỉ qua đêm thì phải có thêm giấy đăng ký kết hôn.

3. Trại viên được nhận và gửi thư; được nhận quà, tiền (Việt Nam); các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục. Riêng tiền mặt, trại viên phải gửi vào bộ phận lưu ký của cơ sở giáo dục để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.

Điều 34. Chế độ khen thưởng, kỷ luật

1. Trại viên có thành tích trong rèn luyện, học tập và chấp hành tốt quy định của pháp luật, nội quy cơ sở giáo dục thì được khen thưởng bằng các hình thức: biểu dương, khen, thưởng tiền mặt hoặc hiện vật, tăng số lần và thời gian gặp người thân, được xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

2. Trại viên vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy cơ sở giáo dục, chây lười lao động, học tập; không tự giác sửa chữa lỗi lầm, thường xuyên không hoàn thành định mức lao động được giao thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị kỷ luật bằng các hình thức: cảnh cáo, hạn chế số lần gặp người thân, hạn chế nhận quà, bị cách ly tại buồng kỷ luật từ 07 đến 10 ngày; nếu hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trường hợp vi phạm chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng đã được giáo dục và bị kỷ luật nhiều lần, đến khi hết thời hạn giáo dục tại cơ sở giáo dục mà vẫn không chịu sửa chữa, không tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng xem xét quyết định việc đưa người đó vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung quy định tại Điều 10 Nghị định này.

Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục để biết.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này.

Điều 35. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hành chính

1. Người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính về việc áp dụng biện pháp đó.

2. Mọi công dân đều có quyền tố cáo những hành vi trái pháp luật trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc thủ tục giải quyết khởi kiện hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo hoặc theo thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Chương 5:

TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC QUẢN LÝ CƠ SỞ GIÁO DỤC

Điều 36. Trách nhiệm của Bộ Công an

Bộ Công an có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, đảm bảo cho các hoạt động đó theo đúng quy định của pháp luật; ban hành nội quy cơ sở giáo dục, các biểu mẫu để thực hiện thống nhất; phối hợp với các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 37. Trách nhiệm của Bộ Tài chính

Bộ Tài chính có trách nhiệm cấp kinh phí cho việc xây dựng, tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục và các hoạt động khác có liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an đã được duyệt.

Điều 38. Trách nhiệm của Bộ Y tế

Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn việc phòng bệnh; khám, chữa bệnh cho người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 39. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an trong việc xây dựng chương trình giáo dục, hướng dẫn dạy văn hoá, dạy nghề và thực hiện các chế độ bảo hiểm lao động cho trại viên theo quy định của pháp luật.

Điều 40. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quy định của Nghị định này; cấp đất cho việc xây dựng cơ sở giáo dục; phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở giáo dục đóng tại địa phương mình hoàn thành nhiệm vụ; chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp có kế hoạch quản lý, giáo dục những người đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa thực sự tiến bộ quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định này; có chính sách giúp đỡ những người đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tìm việc làm, sớm ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng.

Chương 6:

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 41. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Nghị định này thay thế cho Nghị định số 32/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế về cơ sở giáo dục.

Điều 42. Hướng dẫn thi hành

Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định này.

Điều 43. Trách nhiệm thi hành

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Phan Văn Khải

(Đã ký)

42
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Nghị định 76/2003/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
Tải văn bản gốc Nghị định 76/2003/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

THE GOVERNMENT

 

SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
----------

No: 76/2003/ND-CP

Hanoi, June 27, 2003

 

DECREE

PRESCRIBING AND GUIDING IN DETAIL THE APPLICATION OF THE MEASURE OF CONSIGNMENT TO EDUCATION CAMPS

THE GOVERNMENT

Pursuant to the December 25, 2001 Law on Organization of the Government;
Pursuant to the July 2, 2002 Ordinance on Handling of Administrative Violations;
At the proposal of the Minister of Public Security,

DECREES:

Chapter I

GENERAL PROVISIONS

Article 1.- Regulation scope

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 2.- Consignment to education camps

1. Consignment to education camps is an administrative handling measure which aims to assist and educate persons committing acts of law offense as provided for in Article 3 of this Decree with conditions to have their schooling, vocational training, to labor and live under the control of the education camps so as to redress their mistakes and soon become honest citizens useful for the society.

2. The application of measure of consignment to education camps shall be decided by presidents of the People's Committees of provinces or centrally-run cities.

The duration of applying the measure of consignment to education camps ranges from six months to two years.

Article 3.- Subjects consigned to education camps

1. Subjects consigned to education camps include persons who commit one of the following acts of law violation in a regular manner (with two or more violations in a year), but not to the extent of being examined for penal liability and who have been or have not yet been subject to the application of education at communes, wards, district towns but have no certain residence places:

a) Infringing upon the health, honor and/or dignity of citizens, or foreigners;

b) Infringing upon the properties of domestic or foreign organizations and/or individuals;

c) Fomenting public disorder; resisting persons on official duties;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

e) Coercing, dragging or inducing other persons to flee abroad or to stay abroad illegally.

2. Persons who are not full 18 years old; persons who are over 55 years old for female, or over 60 years old for male shall not be consigned to education camps.

The time for calculating the above-mentioned ages shall be the date of signing the decisions on sending those persons to education camps; the legal basis for determining the ages are birth certificates; if the birth certificates are unavailable, the age calculation must be based on people's identity cards or household residence registers.

3. In the following cases the decisions on consignment to education camps shall not be issued or such people shall not be forced to continue executing the decisions on consignment to education camps but their dossiers shall be transferred so that presidents of the People's Committees of communes, wards or district towns issue decisions to apply the measure of education at communes, wards or district towns to such persons in accordance with the provisions of law:

a) The persons for whom the dossiers on consignment to education camps have already been compiled but who have already been over 55 years old, for women, or over 60 years old, for men, on the date the decisions to consign them to education camps are signed;

b) The persons for whom the decisions on consigning them to education camps have been issued but not yet executed and who have escaped and reached the age of over 55 for women or over 60 for men when they were recaptured.

4, The measure of consignment to education camps shall not apply to persons who do not bear the Vietnamese nationality and persons who bear foreign passports.

Article 4.- Statute of limitation for application of measure of consignment to education camps

The statute of limitation for applying the measure of consignment to education camps shall be one year as from the time the subjects compelled to the application of this measure commit for the last time one of the acts of violation prescribed in Clause 1, Article 3 of this Decree.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 5.- Handling principles

1. All acts of administrative violations prescribed in Clause 1, Article 3 of this Decree must be detected in time and handled in a prompt, just and clairvoyant manner strictly according to the provisions of this Decree and relevant law provisions.

2. The application of measure of consignment to education camps must ensure the right persons, the right violation acts, the right order, procedures and competence prescribed in the Ordinance on Handling of Administrative Violations and this Decree.

All acts of infringing upon the lives, health, dignity, honor and/or property of the persons subject to the application of measure of consignment to education camps are strictly forbidden.

3. When deciding to apply the measure of consignment to education camps, the responsible persons must base themselves on law provisions, the violations' nature and dangerousness to society, the violators' personal identities, the extenuating and aggravating circumstances and administrative responsibilities in order to make proper decisions.

4. The persons subject to the application of measure of consignment to education camps must study, labor and live under the management by the education camps in order to become citizens useful for the society.

5. Persons who have completely served the decisions on consignment to education camps shall be given conditions to integrate themselves into the community in order to earn their living and lead an honest life; when fully satisfying the conditions prescribed in Clause 2, Article 11 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations, they shall be considered as having not yet been subject to the application of measures of consignment to education camps.

Article 6.- Establishment and management of education camps

1. The Minister of Public Security shall decide on the establishment, merger and dissolution of education camps nationwide.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

2. The education camps shall be planned, designed and constructed under the regulations of the Ministry of Public Security, aiming to ensure their suitability to the characters and requirements of the work of management and education of inmates and ensure the standards on fire prevention and fighting as well as environmental sanitation.

3. The Ministry of Public Security uniformly manages the education camps throughout the country and coordinates with the Ministry of Education and Training as well as the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs in organizing and managing the education camps.

Article 7.- Funding for the application of measure of consignment to education camps

1. Funding for investment in the construction of material bases, the procurement of equipment, facilities and means and the organization of operation of education establishments; for the compilation, consideration and approval of dossiers; for the meal, clothing, lodging, study, disease prevention and treatment of inmates shall be provided by the State budget and included in the annual budget estimates of the Ministry of Public Security.

2. Education camps may receive aids and material assistance from organizations and individuals; may enter into contracts or association with organizations and individuals in economic activities under the provisions of law in order to create funding sources in support of their operation.

Article 8.- Interpretation of terms and phrases

In this Decree, the following terms and phrases shall be construed as follows:

1. Inmates are persons executing the decisions on consignment to education camps at education camps.

2. Seriously ill persons are persons who are in the state of being so seriously ill that they are no longer capable of working and performing daily-life activities or who are in the state of danger to their lives and must, under physicians' indications, be hospitalized for a given period of time before they can recover.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

4. Families meeting with exceptional difficulties mean cases where the persons subject to the application of measure of consignment to education camps are the only work hands to ensure their families' subsistence; where their families are struck by natural disasters, big fires or their next of kin are seriously ill or suffer from dangerous ailments and there are no body but such persons to overcome the consequences of natural disasters, fires or to nurse the ill persons.

Chapter II

PROCEDURES FOR CONSIGNING PEOPLE TO EDUCATION CAMPS

Article 9.- Compiling dossiers proposing the consignment to education camps

1. For people who are subject to the consignment to education camps, have certain residences and already been subject to the application of measure of education at communes, wards or district towns, the presidents of the People's Committees of the communes where such people reside shall consider and compile dossiers to be sent to the district-level People's Committee presidents.

The dossiers proposing the consignment of people to education camps shall include the curricula vitae of those people, the records and documents on law violations committed by them, the documents on measures already applied, remarks of the police offices, opinions of the Fatherland Front Committees and other relevant social organizations of the same level.

2. For people who subject to consignment to education camps, have no certain residences, the presidents of the People's Committees of the communes where such people commit the law violations shall make records thereon and report such to the district-level People's Committee presidents.

In cases where the subjects are detected, processed and investigated directly by district- or provincial-level police offices in cases of law violation which are not serious enough for being examined for penal liability but the violators are subjects to be consigned to education camps as defined in Clause 1, Article 3 of this Decree, the police offices which are processing the cases must verify, gather materials and compile dossiers for sending to the presidents of the People's Committees of the same level, proposing the application of measure of consignment to education camps.

The dossiers proposing the consignment of people to education camps in this case shall include the curricula vitae of such people, documents on law violations committed by them, the excerpts of judgments and education measures already applied (if any).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

4. The police offices at all levels shall have to assist the presidents of the People's Committees of the same level in gathering materials and compiling dossiers of proposing the consignment of people to education camps.

5. Within 2 days after the receipt of the dossiers, the district-level People's Committee presidents shall have to transfer the dossiers to the police offices of the same level for verification and examination thereof. Within 15 days after the receipt of the dossiers, the district-level police offices shall have to verify and examine the dossiers and report thereon to the presidents of the People's Committees of the same level. Within 3 days after the receipt of verification and examination reports from the police offices, the district-level People's Committee presidents shall have to send the dossiers together with their written proposals on consigning people to education camps to the provincial-level People's Committee presidents. Within 3 days after the receipt of the dossiers, the provincial-level People's Committee presidents shall send them to the members of the Advisory Councils.

6. Where the subjects for whom the district-level police offices compile the dossiers for submission to the presidents of the People's Committees of the same level as provided for in Clause 2 of this Article, the district-level People's Committee presidents shall, within 10 days after the receipt of the dossiers, have to send the dossiers together with the written proposals on consignment to education camps to the provincial-level People's Committee presidents.

7. Where the subjects are detected, processed and investigated directly by the provincial-level police offices in law violation cases which are not serious enough to be examined for penal liability but the violators are subjects to be consigned to education camps, the provincial-level police offices shall complete the procedures and dossiers and send them to the Advisory Councils for consideration and settlement according to the general procedures prescribed in this Decree.

Article 10.- The Advisory Councils for consignment to education camps

1. The Advisory Councils for consignment to education camps shall be set up under decisions of the provincial-level People's Committee presidents, each comprising the director of the provincial-level Police Department, the director of the provincial-level Justice Service, the director of the provincial-level Service of Labor, War Invalids and Social Affairs, the president of the provincial-level Fatherland Front Committee, with the director of the Police Department acting as the standing member of the Advisory Council. The standing members of the Advisory Councils shall have to prepare documents for, organize and preside over the meetings of the Councils.

2. Within 15 days after the receipt of dossiers, the Advisory Councils shall have to examine them and organize meetings to consider and approve the dossiers and make reports for submission to the provincial-level People's Committee presidents.

The Advisory Councils shall work according to the collective regime and make conclusions by majority. In cases where the number of votes for and against is split equal, the decisions shall be made according to the votes of the standing members of the Advisory Councils. Divergent opinions must be recorded in the minutes of meetings and sent together with the reports to the provincial-level People's Committee presidents for consideration and decision.

3. Representatives of the provincial-level People's Councils shall be invited to attend meetings of the Advisory Councils.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

When scrutinizing dossiers on subjects in order to propose or decide to apply the measure of consignment to education camps, if deeming that the violation acts committed by such people show signs of criminal offenses, the competent persons shall have to write official dispatches and transfer the dossiers to the competent investigating agencies for settlement according to criminal procedures.

Article 12.- Handling cases where a person is the subject to be consigned to education camp and concurrently the subject to be sent to medical establishment

Where a person who has committed acts of law violation is the subject to be consigned to education camp and concurrently the subject to be sent to medical establishment, the competent body shall only apply the measure of sending him/her to the medical establishment.

The agency which has received the dossiers of consignment to the education camp, shall have to transfer the entire dossiers to the Advisory Council for sending people to medical establishment for carrying out the procedures to send him/her to the medical establishment according to law provisions.

Article 13.- Deciding on consignment to education camps

1. The provincial-level People's Committee presidents shall consider and decide on the consignment to education camps within 7 days as from the date of receiving the reports of the Advisory Councils.

2. The decisions on consignment to education camps take implementation effect as from the date of their signing and must be sent immediately to the provincial-level Police Departments, the provincial-level People's Councils, the People's Committees of the communes where such people reside and to the persons subject to execute the decisions on consignment to education camps before the enforcement thereof.

3. The decisions on consignment to education camps must be clearly inscribed with dates of their issuance; the full names and positions of the decision makers; the full names, dates of birth, occupation, residence places of the persons to be consigned to education camps; their acts of law violation; clauses and articles of the applicable documents; the decision execution duration; the venues for execution of decisions under the guidance of the Ministry of Public Security; the right to complain or take legal action against decisions on consignment to education camps shall comply with law provisions.

Article 14.- Executing decisions on consignment to education camps

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

The duration of serving the decisions on consignment to education camps is counted from the date the persons subject to the application of this measure are taken to education camps.

Upon receiving the decisions on consignment to education camps, the district-level police offices and the commune-level People's Committees shall have to coordinate with the provincial-level Police Departments in ensuring the execution of those decisions.

2. In cases where the time is needed for carrying out procedures before taking people to education camps, the provincial-level Police Departments shall issue decisions to manage them at the provincial-level police offices for no more than 5 days in order to carry out necessary procedures.

The duration of being managed at the provincial-level police offices shall be counted into the duration of executing the decisions at the education camps.

The food and lodging regimes applicable to the persons who have obtained decisions on consignment to education camps during the time they are managed at the provincial-level police offices shall be the same as those for education camp inmates.

The provincial-level Police Departments shall have to arrange exclusive places for management of persons, who have obtained decisions on consignment to education camps, during the time they are managed at the provincial-level police offices.

The Ministry of Public Security shall guide in detail the management of such subjects at the provincial-level police offices in this case.

3. The consignment of people to education camps for execution the decisions thereon must be accompanied with dossiers; such a dossier shall include:

a) The decision on consignment to education camp;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

c) The title of the person to be consigned to the education camp;

d) Other necessary documents related to the personal identity of the person compelled to execute the decision, which shall serve the management and education of such person (if any).

4. When receiving persons consigned to education camps by decisions, the concerned people shall have to compare and check the handed persons with the dossiers, identity cards or people's identity cards and other personal papers of such persons and make the records on hand-over and reception, inscribing clearly the documents included in the dossiers, the present health conditions of the handed persons; their personal effects, belongings and other matters related to the hand-over and reception of subjects.

Article 15.- Coercive execution of decisions

If the persons compelled to execute decisions on consignment to education camps refuse to voluntarily execute the decisions or commit acts of opposition, they may be handcuffed, escorted or applied with other necessary coercive measures under the provisions of law and the guidance of the Ministry of Public Security in order to force them to execute the decisions. In cases where their resisting acts show sign of criminal offenses, they shall be examined for penal liability under the provisions of the criminal legislation.

Article 16.- The statute of limitation for execution of decisions on consignment to education camps

Decisions on consignment to education camps shall expire one year after they are issued. In cases where persons consigned to education camps deliberately evade the execution thereof, the statute of limitation mentioned above shall be recalculated from the time the act of evasion is terminated.

Article 17.- Hunt for and arrest of subjects who have already been given the decisions on consignment to education camps but escaped

1. If the persons who have been given decisions on consignment to education camps escape before being taken to the camps, the police chiefs of the districts where such persons reside or where the dossiers have been compiled shall issue decisions to hunt for them.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

3. The agencies which have issued decisions on the hunt therefor shall have to organize the hunt for and arrest of the escapees. If subjects resist when being arrested, necessary coercive measures may be applied under the provisions in Article 15 of this Decree to compel such persons to abide by the decisions.

The People's Committees and police offices at all levels shall have to coordinate with and assist the above-mentioned agencies in the hunt for and arrest of the escapees.

When detecting the subjects to be hunted for, every people shall have to promptly report thereon to the nearest police offices or People's Committees or arrest and escort them to the above-mentioned agencies.

4. When the escapees are arrested or the subjects are handed over, the police offices must make records thereon and question them for their declarations; and at the same time notify the agencies which have issued decisions to hunt for them so that the latter can come and receive the subjects.

Upon receiving the notification, the agencies which have issued hunting decisions must send their people to receive the subjects and take them to education camps; the hand-over and receipt of subjects must be recorded in writing according to regulations.

Pending the receipt of subjects by agencies which have issued decisions on the hunt for them, if necessary, the competent persons may issue decisions to temporarily hold them in administrative custody in accordance with law provisions or transfer them to the provincial-level Police Departments for management according to the provisions in Clause 2, Article 14 of this Decree.

It is strictly forbidden to temporarily hold subjects in criminal remand or detention houses or in places failing to ensure hygiene and safety for persons held in administrative custody.

Article 18.- Postponing or exempting the execution of decisions on consignment to education camps

1. Persons who have been given decisions on consignment to education camps but have not yet come to execute such decisions at the education camps shall be entitled to the postponement of execution of such decisions in the following cases:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

b) They are women being in family way with certification of health centers or hospitals of the district or higher level or nursing their children of under 36 months old, filing their applications and getting certification of the People's Committees of the communes where they reside;

c) Their families are meeting with exceptional difficulties, have filed their applications and got the certification of the People's Committees of the communes where they reside.

When the postponement duration expires or when the postponement conditions no longer exist, the decisions on consignment to education camps shall continue to be executed promptly.

2. Persons who have been given decisions on consignment to education camps but have not yet come to execute such decisions at the education camps shall be exempt from the execution thereof in the following cases:

a) They are suffering from dangerous ailments, with certification of hospitals or health centers of the district or higher level and such persons are no longer dangerous to society;

b) They have made marked progress in observing laws or recorded achievements during the time of postponing the execution of decisions on consignment to education camps.

3. The provincial-level People's Committee presidents shall consider and decide on the postponement and exemption of execution of decisions on the basis of the written requests of the persons subject to execute decisions on consignment to education camps. In case of necessity, the provincial-level People's Committee presidents shall assign the police directors of the same level to examine and verify specific cases stipulated in Clauses 1 and 2 of this Article before making decisions.

Chapter III

ORGANIZATION OF EDUCATION CAMPS AND MANAGEMENT OF INMATES

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

1. The organization and apparatus of an education camp is composed of the director, deputy-directors, administrators, educators, general education and vocational teachers; logistic, technical and medical staff and guard police force.

2. The appointment and dismissal of directors and deputy-directors of education camps, the payroll and organizational apparatuses of education camps shall be decided by the Minister of Public Security.

The education camps shall be sized to manage between 500 and 2,500 inmates each. Education camps accommodating over 1,000 inmates may set up sub-zones according to regulations of the Ministry of Public Security.

Article 20.- Directors and deputy-directors of education camps

1. Directors of education camps are the heads of education camps and have to take responsibility for the entire operation of their education camps.

2. Deputy-directors are persons who assist the directors in performing tasks assigned by the directors and are answerable to the directors and law for their assigned work domains.

Article 21.- Criteria of directors, deputy-directors, officials and employees of education camps

1. Directors, deputy-directors, administrators, educators, logistic and medical officials and guard police must be the persons who have good political quality, good sense of organization and discipline and have good knowledge about their profession and law.

2. Directors and deputy-directors must be the graduates from one of the following schools: The People's Police Academy, the People's Security Academy, the Law University, the Social Sciences and Humanity University or the Pedagogical University, and must have experiences in administering and educating law offenders.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

4. Police officers and men performing the tasks of management, escort and/or protection must be persons trained in specialized operation under the regulations of the Ministry of Public Security.

Article 22.- Transfer of inmates

To suit the inmate management scales of education camps or the professional requirements, the director of the Department for Management of Detention Camps, Education Camps and Reformatories may issue decisions to transfer inmates from one education camp to another under the regulations of the Ministry of Public Security.

Article 23.- Enucleation of inmates

1. Enucleation of inmates means the temporary delivery of inmates from education camps at the requests of competent criminal proceeding agencies for the former to participate in the legal proceedings in cases related to them. The inmate enucleation duration shall be counted into the duration of execution at the education camps.

2. Upon enucleation requests, the heads of the competent legal proceeding agencies must send official dispatches to the directors of the education camps, clearly stating the full names of the persons to be enucleated, the reasons for and duration of enucleation. Basing themselves on the written requests of the legal proceeding agencies, the directors of the education camps shall issue decisions to enucleate inmates. The decisions on inmate enucleation must clearly state the full names, ages and addresses of the persons to be enucleated, the agencies requesting the enucleation, the purposes and duration of the enucleation, the ranks and positions of the persons who sign the enucleation.

3. The agencies requesting the enucleation shall have to take away the enucleated persons and return them to the education camps within the time limits inscribed in the enucleation decisions. Upon hand-over and receipt of persons under enucleation decisions, the records thereon must be made strictly according to regulations.

Article 24.- Penal liability examination against persons to be consigned to education camps under issued decisions

1. Cases where persons have got decisions on consignment to education camps but are later detected with their violation acts showing criminal signs while the statute of limitation for penal liability examination has not yet expired shall be handled as follows:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

If later for such acts of the subjects, there are decisions to suspend the investigation, suspend the cases or the courts declare they are not guilty, the legal proceeding agencies shall have to transfer the dossiers on the subjects to the provincial-level People's Committee presidents who shall consider the cases and issue decisions to consign such persons to education camps.

b) Where such persons are serving decisions at education camps, at the requests of competent criminal proceeding agencies, the directors of the education camps shall issue decisions to temporarily suspend the execution of decisions on such persons and transfer the dossiers on the subjects to the legal proceeding agencies; at the same time notify such to the presidents of the provincial-level People's Committees where the decisions on consigning them to education camps were issued.

If later, for the subjects' acts, there are decisions to suspend the investigation, to suspend the cases or the courts have declared they are not guilty, the legal proceeding agencies shall have to transfer the dossiers on the subjects to education camps so that they continue serving the decisions.

In cases where subjects are liable to the application of one of the penalties prescribed in the Penal Code, the legal proceeding agencies which have earlier received the dossiers on the subjects must notify in writing the education camps of the penalties, the application duration, the places where judgments are executed and other relevant contents; at the same time, notify the presidents of the provincial-level People's Committees where the decisions on consigning such persons to education camps were previously issued for the latter to cancel the decisions on consigning such persons to education camps.

In cases where subjects are liable to the application of imprisonment penalty, the duration of executing the measure of consignment to education camps shall be counted into the duration of serving the imprisonment penalty. Two days of executing the measure of consignment to education camps shall be calculated as equal to one day of serving the imprisonment penalty.

2. Cases of detecting that the persons who have been given decisions on consignment to education camps have committed criminal offenses before or during the time of serving decisions shall be handled as follows:

Where they have not yet executed the decisions, the provincial-level People's Committee presidents shall, at the requests of the competent criminal proceeding agencies, issue decisions to suspend the execution of decisions on consigning such persons to education camps and transfer the dossiers on the subjects to the competent criminal proceeding agencies.

Where such persons are serving the decisions at education camps, at the requests of the competent criminal proceeding agencies, the directors of the education camps shall issue decisions to suspend the execution of decisions against such persons and transfer the dossiers on the subjects to the competent criminal proceeding agencies.

If later the subjects are imposed with the imprisonment penalty, they shall be exempt from serving the remaining duration in the decisions on application of measure of consignment to education camps; if the imposed penalty is not the imprisonment penalty or is the termed imprisonment but the suspended sentence, such persons may have to continue serving the decisions on consignment to education camps.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

1. Inmates who have served half of the duration stated in the decisions, if having made marked progress or recorded achievements, shall be considered for reduction of the execution duration by one to six months or be exempt from serving the remaining duration.

During the time of serving decisions at education camps, each person shall be entitled to one reduction; where inmates have already enjoyed the execution duration reduction, but later have recorded achievements, they may be considered for the second reduction.

2. In cases where inmates are seriously ill and need to be sent back to their families for treatment, they shall enjoy the temporary suspension from execution of decisions; the temporary suspension duration shall be counted into the decision execution duration; if after the health recovery the execution duration still remains for 3 months or more, such persons shall have to continue executing the decisions at education camps.

Female inmates who get pregnant shall be temporarily suspended from serving their decisions till their children are full 36 months old; if during the temporary suspension period, they make marked progress or record achievements, they shall be exempt from serving the remaining duration. Inmates suffering from dangerous ailments shall be exempt from serving the remaining duration.

3. The director of the Department for Management of Detention Camps, Education Camps and Reformatories shall decide on the execution duration reduction, the execution suspension or exemption as provided for in Clauses 1 and 2 of this Article at the proposals of the directors of the education camps. Their decisions must be addressed to the presidents of the provincial-level People's Committees where the decisions on consigning such persons to education camps were issued and the People's Committees of the communes where they reside.

4. The Minister of Public Security shall guide in detail the implementation of execution duration reduction, execution suspension or exemption prescribed in Clauses 1, 2 and 3 of this Article.

Article 26.- Expiry of the time limit for serving the measure of consignment to education camps

1. When persons consigned to education camps have completely served the duration of consignment to education camps, the directors of the education camps shall grant them the certificates and send the copies thereof to the director of the Department for Management of Detention Camps, Education Camps and Reformatories, the presidents of the provincial-level People's Committees where decisions were issued and the People's Committees of the communes where such persons reside.

In cases where persons who have completely served the decisions do not really redeem their past, the directors of the education camps must make separate written remarks and propose measures for subsequent management and education and send them to the district-level police offices and the People's Committees of the communes where such persons reside.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

2. Persons who have completely served the duration of consignment to education camps are entitled to receive back their money and things deposited at the camps (if any) and be provided with money for travel fares, meals and a set of civilian clothes each (if they do not have any) for their returns to residence places, and have to return all utensils, devices they have borrowed from the education camps for their labor, study and daily-life activities therein, and if causing the loss thereof or damage thereto, they must pay compensation therefor.

Chapter IV

REGIMES FOR INMATES

Article 27.- Regime of management of inmates

1. Inmates must labor, study and live under the management and supervision of education camps.

Depending on the number of inmates, education duration, personal identities, the nature and seriousness of violations, health conditions, sex, age group of each type of subjects, the education camp directors shall work out measures to organize the management and education of the subjects in a proper manner and according to the regulations of the Ministry of Public Security.

2. Inmates shall be lodged in collective rooms for teams, groups or subgroups to suit the requirements of the work of management and education of each type of subjects.

Inmates shall be given beds (or sleeping floors), mats, mosquito-nets, thin blankets; and a sleeping place of at least 2.5 m2 each. Lodging areas for men and women are separated from each other.

3. Inmates are allowed to bring into education camps essential personal effects prescribed by the Ministry of Public Security.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

1. Each year, an inmate shall be provided with 2 sets of long dresses, 2 sets of underwear, 2 towels, 1 pair of slippers, 1 toothbrush, 1 raincoat, 1 hat; each quarter, a toothpaste tube, 0.6 kg of soap; every two years, 1 blanket, 1 mosquito-net; in northern cold regions, an addition of 1 warm coat and 1 cotton blanket in two years.

Female inmates shall be provided with monthly personal hygiene money equivalent to 2 kg of rice, calculated at the local market prices.

2. The monthly food ration for an inmate is prescribed as follows: 15 kg or rice, 0.8 kg of meat or fish, 0.3 kg of sugar, 0.5 kg of salt, 1 liter of fish sauce, 15 kg of vegetables, 15 kg of firewood or equivalent for fuel. On public holidays and solar New Year day, their daily food ration shall be trebled at most; and on the lunar New Year festival, they shall be given additional food not more than 5 times the daily ration. For persons doing heavy jobs or working in hazardous environment, their monthly food ration may increase according to law provisions. The food rations shall be calculated at the market prices in each locality.

3. The food and rest regimes for diseased inmates shall be decided by education camp directors upon the indication of medical bodies.

Article 29.- Regimes of activities and study

1. Inmates may participate in physical training, sport, cultural, artistic, entertainment and recreation activities; read books, newspapers, listen to radio, be briefed on topical issues and policies, watch television according to regulations of the Ministry of Public Security.

2. Inmates may attend literacy classes twice a week in the evening, 4 hours each. Depending on the practical conditions of the education camps, the directors may arrange time for other subjects to take other general education courses.

3. Inmates may take up the citizen education program once a week for 4 hours.

4. Depending on their practical conditions, the education camps may arrange inmates to labor in combination with learning of proper occupations.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 30.- Labor regime

1. Inmates work 8 hours a day and take rest on Saturdays, Sundays, public holidays and New Year days as prescribed by law.

In case of unexpected work, camp directors may request inmates to work extratime but for not more than 2 hours a day and inmates must be given rest as compensation.

2. Inmates must fulfill their assigned labor norms. Besides the conventional daily working hours, education camps may permit inmates to do extratime work to improve their living conditions at their requests but in strict compliance with law provisions.

3. For jobs requiring labor protection under law provisions, the education camps shall have to supply labor safety clothing and equipment suitable to the requirements of such jobs. In case of working on night shift, working extratime at unexpected requests, working under hazardous conditions or doing heavy jobs, allowances shall be paid therefor according to regulations.

4. Where inmates get labor accidents, the education camps must organize rescue and treatment in time and carry all necessary procedures to settle the allowance regimes under the provisions of law.

Article 31.- Management and use of labor fruits of education camps

1. Education camps shall uniformly manage their labor fruits to cover expenses for medical examination and treatment, to partly cover expenses for food and activities of inmates, to reward inmates who record achievements in labor and study, to supplement their welfare funds; to invest in enlarged production, in construction of their material bases; reward their officials and combatants for their achievements in organizing labor management.

Inmates who overfulfill their assigned norms shall be entitled to use part of the results of the overfulfilled norms.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 32.- Regime of medical examination and treatment and handling of cases where inmates die

1. Depending on their practical conditions, the education camp directors shall organize health checks and apply disease prevention measures for their inmates. The money expenditure on monthly medicine as well as medical examination and treatment for each inmate shall be equivalent to 2 kg of rice at the market price of each locality.

In cases where inmates are infected with diseases, the education camp directors shall base themselves on indications of the medical officials to consider and allow them to temporarily retire from labor and/or study or reduce their labor norms and/or working hours during the time of their ailment; in case of necessity, permit their treatment at the camps clinics or hospitals; in case of serious illness and need to send them back to their families for treatment, the education camp directors shall report thereon to the director of the Department for Management of Detention Camps, Education Camps and Reformatories for issuing decisions to temporarily suspend the decision execution as provided for in Article 25 of this Decree.

2. In cases where inmates die, the education camp directors must report such to the nearest investigating agencies and People's Procuracies for making records thereon and certifying the causes of their death to the witness of other inmates in the camps, and at the same time send death notices to their families and notify such to the provincial-level People's Committees where the decisions to send such persons to education camps were issued and the People's Committees of the communes where such persons previously resided.

Within 24 hours after the completion of the above-mentioned procedures, the education camp directors shall have to organize the burial of the dead persons; the burial funding shall be provided by the State budget.

Where the dead persons' relatives file their applications requesting to take the corpses back for burial by themselves, the education camp directors may decide to let them do so.

Such written requests must be certified by commune-level People's Committees and clearly state the pledge to comply with the law provisions on security, order and environmental sanitation.

Article 33.- Regimes of meeting with relatives; receiving and sending letters; receiving money, presents

1. Inmates are allowed to meet their next of kin twice a month, for two hours at most each time at the reception houses of the education camps and must strictly comply with the regulations on visits and meets. Cases of longer meets must be consented by education camp directors, which, however, must not exceed four hours.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

2. Persons who come to visit inmates must have people's identity cards, written applications for visits, and also their marriage certificates if the visitors are wives or husbands of the inmates and they are permitted to stay overnight.

3. Inmates may receive and send their letters; receive presents, money (Vietnamese currency); letters and presents must go through inspection by the education camps. Particularly for cash, inmates must put them into the depositories of the education camps for use under the regulations of the Ministry of Public Security.

Article 34.- Regimes of rewards and disciplines

1. Those inmates who record achievements in reforming themselves, in study and observance of law provisions as well as internal regulations of the education camps shall be commended in forms of praise, reward in cash or kind, increase of their meets with relatives, entitlement to be considered for reduction or exemption of the remaining duration in camps.

2. Those inmates who break laws, violate internal regulations of the education camps, and/or are lazy in labor and/or study; fail to self-consciously redeem their past and/or frequently fail to fulfill their assigned labor norms, shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined in the forms of caution, restricted meets with their relatives, restricted reception of presents, being isolated in discipline rooms for 7 to 10 days; if their acts of violation show criminal signs, they shall be examined for penal liability.

In cases where inmates commit violations not serious enough for penal liability examination, but have been educated and disciplined time and again and at the end of their duration for education at education camps still fail to redress their wrongdoings and to make progress, the education camp directors shall compile dossiers reporting thereon to the presidents of the provincial-level People's Committees of the localities where the education camps are located for considering and deciding on the consignment of such persons to education camps according to the general procedures prescribed in Article 10 of this Decree.

Such decisions on consignment to education camps must be addressed to the provincial-level People's Committees which issued the previous decisions on sending such persons to education camps for knowledge.

The Ministry of Public Security shall guide in detail the compilation of dossiers of consignment to education camps in this case.

Article 35.- Complaints, denunciations, administrative lawsuits

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

2. All citizens are entitled to denounce illegal acts in the application of measure of consignment to education camps.

3. The competence, procedures and time limits for settling complaints and/or denunciations or the procedures for settling administrative lawsuits shall comply with law provisions on complaints and denunciations or with the procedures for settling administrative cases.

Chapter V

RESPONSIBILITIES OF STATE AGENCIES IN MANAGEMENT OF EDUCATION CAMPS

Article 36.- Responsibilities of the Ministry of Public Security

The Ministry of Public Security has the responsibilities to regularly inspect and supervise the implementation of measure of consignment to education camps, ensuring that such activities comply with law provisions; to promulgate internal regulations of education camps, set forms and tables for uniform application; to coordinate with other ministries, branches and People's Committees at all levels in applying the measure of consignment to education camps.

Article 37.- Responsibilities of the Finance Ministry

The Finance Ministry has the responsibilities to provide funding for the construction, organization and operation of the education camps and for other activities related to the application of measure of consignment to education camps according to the approved annual budget estimates of the Ministry of Public Security.

Article 38.- Responsibilities of the Health Ministry

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 39.- Responsibilities of the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs and the Ministry of Education and Training

The Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs and the Ministry of Education and Training have the responsibilities to coordinate with the Ministry of Public Security in working out programs for education, providing guidance on general education and vocational training and the implementation of labor insurance regimes for inmates as provided for by law.

Article 40.- Responsibilities of the People's Committees of provinces and centrally-run cities

The People's Committees of provinces and centrally-run cities, within the scope of their respective functions and tasks, have the responsibilities to organize the implementation of the provisions of this Decree; allocate land for the construction of education camps; coordinate with and create favorable conditions for the education camps stationing in their respective localities to fulfill their tasks; direct the People's Committees at different levels to draw up plans for management and education of persons who have completely served the decisions on consignment to education camps but fail to make real progress as provided for in Clause 1, Article 26 of this Decree; adopt policies to help persons who have completely served the decisions on consignment to education camps find jobs, stabilize their lives soon and integrate themselves into the community.

Chapter VI

IMPLEMENTATION PROVISIONS

Article 41.- Implementation effect

This Decree takes effect 15 days after its publication in the Official Gazette.

This Decree replaces the Government's Decree No. 32/CP of April 14, 1997 promulgating the Regulation on education camps.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

The Minister of Public Security, the Minister of Finance, the Minister of Labor, War Invalids and Social Affairs, the Minister of Health and the Minister of Education and Training shall guide in detail the implementation of this Decree.

Article 43.- Implementation responsibilities

The ministers, the heads of ministerial-level agencies, the heads of Government-attached agencies and the president of the People's Committees of the provinces and centrally-run cities shall have to implement this Decree.

 

 

ON BEHALF OF THE GOVERNMENT
PRIME MINISTER




PHAN VAN KHAI

 

 

Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Nghị định 76/2003/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
Số hiệu: 76/2003/NĐ-CP
Loại văn bản: Nghị định
Lĩnh vực, ngành: Vi phạm hành chính,Giáo dục,Văn hóa - Xã hội
Nơi ban hành: Chính phủ
Người ký: Phan Văn Khải
Ngày ban hành: 27/06/2003
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:

1. Điều 3 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Đua xe trái phép; tàng trữ, sử dụng vũ khí thô sơ;

d) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

đ) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi tích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

e) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép;

g) Đánh bạc;

h) Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc;

i) Tổ chức, môi giới mại dâm, chứa mại dâm;

k) Tổ chức thực hiện hoặc thực hiện các hành vi mê tín để trục lợi bất chính;

l) Các hành vi khác vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.

2. Người nghiện ma túy thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh mà thuộc loại côn đồ hung hãn nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Người đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh, trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi hành vi nhân cách mà có hành vi vi phạm các quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 và khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 từ hai lần trở lên trong 6 tháng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.

Xem nội dung VB
Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong một năm), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

d) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đ) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

2. Không đưa vào cơ sở giáo dục người chưa đủ 18 tuổi; người trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam.

Thời điểm tính độ tuổi nêu trên là ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; căn cứ pháp lý để xác định độ tuổi là giấy khai sinh, nếu không có giấy khai sinh thì phải căn cứ vào giấy chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu.

3. Các trường hợp sau đây thì không ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc không bắt họ tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà chuyển hồ sơ để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với họ theo quy định của pháp luật:

a) Người đã bị lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng đến ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thì họ đã trên 55 tuổi đối với nữ hoặc trên 60 tuổi đối với nam;

b) Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng chưa chấp hành mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại đã trên 55 tuổi đối với nữ hoặc trên 60 tuổi đối với nam.

4. Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người không có Quốc tịch Việt Nam, người mang hộ chiếu nước ngoài.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:

I. VỀ XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

Việc xác định đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 và quy định tại Điều 3 Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 (sau đây viết tắt là Nghị định số 76, Nghị định số 125) và hướng dẫn tại Thông tư này, trong đó cần lưu ý một số nội dung sau đây:

1. Khoản 3 Điều 113 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 quy định: “Trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi, đối tượng đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh nếu có hành vi vi phạm các quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 và khoản 2 Điều 25 của Pháp lệnh này thì bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục”. Đồng thời, khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “Không đưa vào cơ sở giáo dục người chưa đủ 18 tuổi, nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi”. Do đó, đối với người thực hiện hành vi vi phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 113 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 và khoản 3 Điều 3 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 mà chưa đủ 18 tuổi thì phải lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp họ thực hiện hành vi vi phạm khi đã từ đủ 18 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam.

2. Các trường hợp sau đây được coi là không có nơi cư trú nhất định:

a) Không xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở ổn định;

b) Có nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú nhưng không thường xuyên sinh sống tại đó và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở ổn định.

3. Các trường hợp sau đây được coi là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn:

a) Đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà có hành vi vi phạm được quy định tại Điều 3 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125;

b) Đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà lại có hành vi vi phạm được quy định tại Điều 3 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125.

4. Trường hợp hành vi vi phạm lần sau cùng đã được cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng sau khi xem xét, không đủ điều kiện để đề nghị áp dụng biện pháp này hoặc đã đề nghị nhưng không được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử phạt theo quy định của pháp luật.

5. Trường hợp một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì thực hiện theo quy định tại Điều 113 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 và Điều 12 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125.

Trong trường hợp cơ quan Công an đã thụ lý hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục mà phát hiện người đó thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh được quy định tại Điều 26 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì phải chuyển ngay toàn bộ hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

6. Đối với trường hợp đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại, người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung mà không cần phải có điều kiện là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Xem nội dung VB
Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong một năm), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

d) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đ) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

2. Không đưa vào cơ sở giáo dục người chưa đủ 18 tuổi; người trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam.

Thời điểm tính độ tuổi nêu trên là ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; căn cứ pháp lý để xác định độ tuổi là giấy khai sinh, nếu không có giấy khai sinh thì phải căn cứ vào giấy chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu.

3. Các trường hợp sau đây thì không ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc không bắt họ tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà chuyển hồ sơ để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với họ theo quy định của pháp luật:

a) Người đã bị lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng đến ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thì họ đã trên 55 tuổi đối với nữ hoặc trên 60 tuổi đối với nam;

b) Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng chưa chấp hành mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại đã trên 55 tuổi đối với nữ hoặc trên 60 tuổi đối với nam.

4. Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người không có Quốc tịch Việt Nam, người mang hộ chiếu nước ngoài.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
3. Điều 6 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 6. Thành lập và quản lý cơ sở giáo dục

1. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước.

Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Trường hợp địa phương có nhiều đối tượng thuộc diện cần áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập phương án đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục tại địa phương mình.

2. Cơ sở giáo dục được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công an, nhằm bảo đảm phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục, cai nghiện, chữa bệnh, dạy nghề cho trại viên và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường.

3. Bộ Công an thống nhất quản lý các cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện chương trình giáo dục cho trại viên; phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong việc tổ chức dạy nghề và phối hợp với Bộ Y tế trong việc tổ chức cai nghiện ma túy, phòng bệnh, chữa bệnh cho trại viên cơ sở giáo dục”

Xem nội dung VB
Điều 6. Thành lập và quản lý cơ sở giáo dục

1. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước.

Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Trường hợp địa phương có nhiều đối tượng thuộc diện cần áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập phương án đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục tại địa phương mình.

2. Cơ sở giáo dục được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công an, nhằm bảo đảm phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục trại viên và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường.

3. Bộ Công an thống nhất quản lý các cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc tổ chức, quản lý các cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XIV- THÀNH LẬP VÀ QUẢN LÝ CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trên phạm vi cả nước.

2- Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hàng năm có số lượng người phải đưa vào cơ sở giáo dục từ 500 người trở lên thì có thể lập phương án đề nghị Bộ Trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục đặt tại tỉnh, thành phố đó. Phương án đề nghị thành lập cơ sở giáo dục do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị phải nêu rõ quy mô, địa điểm, kinh phí xây dựng và những vấn đề khác có liên quan đến việc thành lập và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục.

3- Giám đốc, Phó Giám đốc cơ sở giáo dục phải là người đã tốt nghiệp học viện Cảnh sát Nhân dân, Học viện An ninh Nhân dân hoặc các trường Đại học Cảnh sát Nhân dân, Đại học An ninh Nhân dân, Đại học Luật, Đại học Khoa Xã hội và Nhân văn, Đại học Sư phạm và phải có kiến thức, kinh nghiệm về quản lý, giáo dục người vi phạm pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 6. Thành lập và quản lý cơ sở giáo dục

1. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước.

Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Trường hợp địa phương có nhiều đối tượng thuộc diện cần áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập phương án đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục tại địa phương mình.

2. Cơ sở giáo dục được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công an, nhằm bảo đảm phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục trại viên và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường.

3. Bộ Công an thống nhất quản lý các cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc tổ chức, quản lý các cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XII. THÀNH LẬP VÀ QUẢN LÝ CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sát nhập, giải thể cơ sở giáo dục trên phạm vi cả nước.

2. Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hàng năm có số lượng người phải đưa vào cơ sở giáo dục từ 500 người trở lên thì có thể lập phương án đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục đặt tại tỉnh, thành phố đó. Phương án thành lập cơ sở giáo dục do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị phải nêu rõ quy mô, địa điểm, kinh phí xây dựng và những vấn đề khác có liên quan đến việc thành lập và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục.

3. Giám đốc, Phó Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bằng tốt nghiệp một trong các học viện, trường đại học: Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân, Luật, Sư phạm, Khoa học xã hội và nhân văn và phải có kiến thức, kinh nghiệm về quản lý, giáo dục người vi phạm pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 6. Thành lập và quản lý cơ sở giáo dục

1. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước.

Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Trường hợp địa phương có nhiều đối tượng thuộc diện cần áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập phương án đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục tại địa phương mình.

2. Cơ sở giáo dục được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công an, nhằm bảo đảm phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục trại viên và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường.

3. Bộ Công an thống nhất quản lý các cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc tổ chức, quản lý các cơ sở giáo dục.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
4. Điều 7 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 7. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Kinh phí bảo đảm cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục; cho việc lập, xét duyệt hồ sơ; cho việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, truy tìm đối tượng bỏ trốn; cho ăn, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh, cai nghiện ma túy cho trại viên do ngân sách nhà nước cân đối, bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

2. Cơ sở giáo dục được tiếp nhận sự tài trợ, giúp đỡ về vật chất của các tổ chức, cá nhân; được tham gia hợp đồng, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế theo quy định của pháp luật để tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của cơ sở giáo dục”.

Xem nội dung VB
Điều 7. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Kinh phí bảo đảm cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục; cho việc lập, xét duyệt hồ sơ; cho việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, truy tìm đối tượng bỏ trốn; cho ăn, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên do ngân sách nhà nước cân đối, bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

2. Cơ sở giáo dục được tiếp nhận sự tài trợ, giúp đỡ về vật chất của các tổ chức, cá nhân; được tham gia hợp đồng, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế theo quy định của pháp luật để tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
II- KINH PHÍ BẢO ĐẢM CHO TỔ CHỨC THỰC HIỆN VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm :

a- Kinh phí cho việc lập, xét duyệt hồ sơ, cho việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, cho việc quản lý, ăn uống, sinh hoạt của đối tượng trong thời hạn được quản lý tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục, cho việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.

b- Kinh phí cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục, cho ăn, mặc, ở, học tập, dạy nghề, văn nghệ, thể thao và phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên.

c- Kinh phí cho các khoản chi khác có liên quan đến việc tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

2- Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do ngân sách Nhà nước cân đối, bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

Việc lập dự trù kinh phí thường xuyên cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được thực hiện như sau :

a- Công an cấp xã lập dự trù kinh phí gửi Công an cấp huyện, Công an cấp huyện tổng hợp, báo cáo Công an cấp tỉnh. Trên cơ sở đề xuất của Công an cấp huyện và các đơn vị chức năng, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm lập dự trù kinh phí cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục của địa phương mình gửi Vụ Tài chính.

b- Cơ sở giáo dục lập dự trù kinh phí cho việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục, cho ăn, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên và cho các hoạt động khác của cơ sở giáo dục, gửi báo cáo Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng. Trên cơ sở đề xuất của các cơ sở giáo dục, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng lập dự trù kinh phí chung cho các cơ sở giáo dục, gửi Vụ Tài chính.

c- Trên cơ sở dự trù kinh phí của Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, Vụ Tài chính lập dự trù kinh phí chung để bảo đảm cho việc thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trình lãnh đạo Bộ xem xét, quyết định.

Xem nội dung VB
Điều 7. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Kinh phí bảo đảm cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục; cho việc lập, xét duyệt hồ sơ; cho việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, truy tìm đối tượng bỏ trốn; cho ăn, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên do ngân sách nhà nước cân đối, bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

2. Cơ sở giáo dục được tiếp nhận sự tài trợ, giúp đỡ về vật chất của các tổ chức, cá nhân; được tham gia hợp đồng, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế theo quy định của pháp luật để tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của cơ sở giáo dục.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
5. Điều 9 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục

1. Công an các cấp có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục cư trú (đối với người có nơi cư trú nhất định) hoặc nơi người đó thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (đối với người không có nơi cư trú nhất định) xem xét, lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gửi Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Công an cấp huyện). Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm xác minh, thẩm tra hồ sơ, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do cơ quan công an cùng cấp chuyển đến, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, gửi hồ sơ kèm theo văn bản trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục đến Thường trực Hội đồng Tư vấn (tại Công an cấp tỉnh) để thẩm định, giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh). Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Thường trực Hội đồng Tư vấn phải gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng Tư vấn.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gồm có bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; văn bản về các biện pháp giáo dục đã được áp dụng (đối với người có nơi cư trú nhất định); nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp liên quan.

3. Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Nghị định này thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; bản trích lục án và các biện pháp giáo dục đã bị áp dụng (nếu có).

4. Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện thụ lý, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp theo quy định tại khoản 3 Điều này thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Thường trực Hội đồng Tư vấn (tại Công an cấp tỉnh) để thẩm định, giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

5. Trong trường hợp cơ quan Công an cấp tỉnh lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 3 Điều này thì Giám đốc Công an cấp tỉnh báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng Tư vấn.

6. Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng đang trong thời gian lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục; trường hợp đối tượng không có nơi cư trú nhất định, có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an Cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định này để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục”.

Xem nội dung VB
Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, có nơi cư trú nhất định và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xem xét, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gồm có bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; văn bản về các biện pháp giáo dục đã được áp dụng; nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan.

2. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; bản trích lục án và các biện pháp giáo dục đã bị áp dụng (nếu có).

3. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đưa họ vào cơ sở giáo dục.

4. Công an các cấp có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

5. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải giao hồ sơ cho cơ quan Công an cùng cấp để xác minh, thẩm tra hồ sơ. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm xác minh, thẩm tra hồ sơ, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận báo cáo xác minh, thẩm tra của cơ quan Công an, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng tư vấn.

6. Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện thụ lý, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo quy định tại khoản 2 Điều này thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

7. Trong trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục thì cơ quan Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ gửi Hội đồng tư vấn để xem xét, giải quyết theo thủ tục chung quy định tại Nghị định này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục III và IV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
III- VỀ LẬP HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 9 Nghị định số 76.

Hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đối với người có nơi cư trú nhất định phải theo đúng quy định tại khoản 1, điều 9 Nghị định số 76, về ý kiến của UBMTTQ và các tổ chức xã hội cấp xã có liên quan thì tùy từng trường hợp cụ thể, Chủ tịch UBND cấp xã có thể tổ chức cuộc họp hoặc lấy ý kiến tham gia bằng văn bản.

Ý kiến của UBMTTQ và tổ chức xã hội cấp xã phải được Chủ tịch UBND cùng cấp nghiên cứu, tham khảo để cân nhắc trong quá trính xem xét, quyết định việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

2- Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ báo cáo, đề xuất Chủ tịch UBND cùng cấp duyệt, trình Chủ tịch UBND cấp huyện.

IV- PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC CHỈ ĐẠO, HƯỚNG DẪN, LẬP HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ TỔ CHỨC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát và lãnh đạo Bộ trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục, tổ chức đưa người vào cơ sơ giáo dục.

2- Giám đốc Công an cấp tỉnh, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm :

a- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục, giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo thẩm quyền.

b- Làm Thường trực Hội đồng tư vấn, trường hợp vì lý do khác mà không thể tham gia Hội đồng tư vấn thì ủy quyền Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát làm thường trực Hội đồng tư vấn.

3- Trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an cấp tỉnh có trách nhiệm.

a- Chủ trì phối hợp với Trưởng phòng Cảnh sát điều tra, Văn phòng Công an tỉnh, thành phố (bộ phận Pháp chế) và các đơn vị có liên quan giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh trong việc xem xét, lập hồ sơ đưa người vào cơ sở giáo dục và hướng dẫn lực lượng Cảnh sát hình sự thuộc Công an cấp huyện trong việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

b- Chậm nhất 07 ngày trước khi họp Hội đồng tư vấn, phải sao gửi các thành viên Hội đồng tư vấn văn bản của Chủ tịch UBND cấp huyện đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục (hoặc văn bản của cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 7, điều 9 Nghị định số 76), bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến việc xem xét, quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, đồng thời gửi giấy mời đại diện thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh tham dự cuộc họp Hội đồng tư vấn (kèm theo tài liệu nêu trên).

c- Tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc đưa người vào cơ sở giáo dục.

d- Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh thẩm tra, xác minh để đề xuất Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 76.

4- Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm :

a- Hướng dẫn Công an cấp xã lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục, chủ trì, phối hợp với các ngành chức năng giúp Chủ tịch UBND cùng cấp xem xét, thẩm định hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

b- Phối hợp với phòng Cảnh sát hình sự trong việc tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc đưa người vào cơ sở giáo dục, ra quyết định truy tìm theo thẩm quyền và tổ chức bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn.

5- Lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các cấp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra và các đơn vị có liên quan giúp lãnh đạo Công an cùng cấp trong việc xem xét, lập hồ sơ đưa người vào cơ sở giáo dục và tiến hành các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.

6- Trưởng Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Chủ tịch UBND cùng cấp trong việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật, phối hợp và thực hiện sự hướng dẫn, chỉ đạo của Công an cấp tỉnh, Công an cấp huyện trong việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, bắt giữ đối tượng có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn, quản lý đối tượng được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Xem nội dung VB
Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, có nơi cư trú nhất định và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xem xét, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gồm có bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; văn bản về các biện pháp giáo dục đã được áp dụng; nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan.

2. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; bản trích lục án và các biện pháp giáo dục đã bị áp dụng (nếu có).

3. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đưa họ vào cơ sở giáo dục.

4. Công an các cấp có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

5. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải giao hồ sơ cho cơ quan Công an cùng cấp để xác minh, thẩm tra hồ sơ. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm xác minh, thẩm tra hồ sơ, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận báo cáo xác minh, thẩm tra của cơ quan Công an, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng tư vấn.

6. Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện thụ lý, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo quy định tại khoản 2 Điều này thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

7. Trong trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục thì cơ quan Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ gửi Hội đồng tư vấn để xem xét, giải quyết theo thủ tục chung quy định tại Nghị định này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
II. VỀ LẬP HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125; trong đó, việc lấy ý kiến của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội cấp xã có liên quan, tùy từng trường hợp cụ thể, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thể tổ chức cuộc họp hoặc lấy ý kiến tham gia bằng văn bản. Ý kiến của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và tổ chức xã hội có liên quan phải được nghiên cứu, tham khảo để cân nhắc trong quá trình xem xét, quyết định việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.

2. Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ báo cáo, đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm xem xét, làm văn bản trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện (gửi qua Công an cấp huyện). Công an cấp huyện có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp để trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Xem nội dung VB
Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, có nơi cư trú nhất định và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xem xét, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gồm có bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; văn bản về các biện pháp giáo dục đã được áp dụng; nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan.

2. Đối với người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó; bản trích lục án và các biện pháp giáo dục đã bị áp dụng (nếu có).

3. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đưa họ vào cơ sở giáo dục.

4. Công an các cấp có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.

5. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải giao hồ sơ cho cơ quan Công an cùng cấp để xác minh, thẩm tra hồ sơ. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm xác minh, thẩm tra hồ sơ, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận báo cáo xác minh, thẩm tra của cơ quan Công an, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng tư vấn.

6. Trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện thụ lý, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo quy định tại khoản 2 Điều này thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải gửi hồ sơ, kèm theo văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

7. Trong trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục thì cơ quan Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ gửi Hội đồng tư vấn để xem xét, giải quyết theo thủ tục chung quy định tại Nghị định này.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục III và IV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 6 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
6. Điều 12 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 12. Xử lý trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh

1. Trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Cơ quan đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ đó cho cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ, xét duyệt đưa vào cơ sở chữa bệnh để tiến hành các thủ tục đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

2. Trong trường hợp đối tượng nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục. Cơ quan đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở chữa bệnh có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ đó cho cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ, xét duyệt đưa vào cơ sở giáo dục để tiến hành các thủ tục đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.

3. Trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định này thì Giám đốc cơ sở chữa bệnh lập hồ sơ gửi Thường trực Hội đồng Tư vấn (tại Công an cấp tỉnh) để thẩm định, giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định này. Người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này không phải chấp hành phần thời gian còn lại của quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này bao gồm:

a) Toàn bộ hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó trong thời gian chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh và các biện pháp giáo dục đã được áp dụng đối với họ;

b) Văn bản đề nghị của Giám đốc cơ sở chữa bệnh trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

c) Các tài liệu khác liên quan đến việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó.”

Xem nội dung VB
Điều 12. Xử lý trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh

Trong trường hợp một người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Cơ quan đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ đó cho Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh để tiến hành các thủ tục đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 6 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
7. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau

“Điều 13. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng Tư vấn

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, cơ sở chữa bệnh đối với trường hợp đối tượng bị đưa vào cơ sở giáo dục là người đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.

3. Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật”.

Xem nội dung VB
Điều 13. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.

3. Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VI- QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa người vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.

2- Quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.

3- Nội dung quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, họ, tên, chức vụ của người ra quyết định, họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục, hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của Pháp luật.

4- Trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đang phải chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (thuộc trường hợp quy định tại tiết b, điểm 3, mục I Thông tư này) thì trong quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục phải có nội dung hủy quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người đó để họ chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Xem nội dung VB
Điều 13. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.

3. Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
V. QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 7 (bảy) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục và giao cho người phải chấp hành quyết định này trước khi thi hành.

3. Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú, hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn, nơi chấp hành quyết định; cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành, cơ quan phối hợp thi hành; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.

4. Trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đang phải chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đang phải chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thì trong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải có nội dung hủy quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người đó.

Xem nội dung VB
Điều 13. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.

3. Nội dung quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 8 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
8. Điều 14 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 14. Thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định, Công an cấp tỉnh hoặc cơ sở chữa bệnh đối với trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định này phải tổ chức đưa người đó vào cơ sở giáo dục.

Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi cơ sở giáo dục.

2. Khi nhận được quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp tỉnh trong việc đảm bảo thi hành quyết định đó.

3. Trong trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục trước khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục thì Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 ngày để tiến hành các thủ tục cần thiết.

Thời hạn bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên trong cơ sở giáo dục.

Công an cấp tỉnh phải bố trí nơi dành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian họ bị quản lý tại Công an tỉnh.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh đối với các trường hợp nêu trên và các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 9 Nghị định này.

4. Khi đưa người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo; hồ sơ gồm có:

a) Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; quyết định lưu giữ hành chính tại Công an cấp tỉnh (nếu có);

b) Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

c) Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

d) Những tài liệu cần thiết khác liên quan đến nhân thân của người phải chấp hành quyết định và để phục vụ cho việc quản lý, giáo dục người đó (nếu có).

5. Khi tiếp nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ, chứng minh nhân dân và giấy tờ tùy thân khác của người đó và lập biên bản giao nhận, ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ; tình trạng sức khỏe hiện tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn đề khác liên quan đến việc giao nhận đối tượng.”

Xem nội dung VB
Điều 14. Thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người phải chấp hành quyết định vào cơ sở giáo dục.

Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi cơ sở giáo dục.

Khi nhận được quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp tỉnh trong việc đảm bảo thi hành quyết định đó.

2. Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục trước khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục thì Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 05 ngày để tiến hành các thủ tục cần thiết.

Thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục.

Công an cấp tỉnh phải bố trí nơi giành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp tỉnh.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trong trường hợp này.

3. Khi đưa người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo; hồ sơ gồm có:

a) Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

c) Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

d) Những tài liệu cần thiết khác có liên quan đến nhân thân của người phải chấp hành quyết định và để phục vụ cho việc quản lý, giáo dục người đó (nếu có).

4. Khi tiếp nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ, căn cước, chứng minh nhân dân và giấy tờ tùy thân khác của người đó và lập biên bản giao nhận, ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ, tình trạng sức khoẻ hiện tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VII- THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày ra quyết định, Trưởng phòng Cảnh sát hình sự có trách nhiệm tổ chức đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục. Việc thi hành quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục phải lập biên bản theo mẫu quy định, biên bản được lập thành 02 bản, một bản lưu ở phòng Cảnh sát Hình sự, một bản gửi kèm theo hồ sơ đưa người vào cơ sở giáo dục.

Khi công bố quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, nếu đối tượng có đơn đề nghị hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định thì phải xem xét ngay, nếu có đủ điều kiện để được hoãn hoặc miễn theo quy định của Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này thì phải làm văn bản đề xuất Giám đốc Công an cấp tỉnh báo cáo Chủ tịch UBND cùng cấp ra quyết định hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định cho người đó.

Thời hạn chấp hành quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi chấp hành quyết định (bao gồm cả thời gian đi đường và thời gian được quản lý tại Công an cấp tỉnh).

2- Hồ sơ, thủ tục khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục :

a- Khi đưa người vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo, bao gồm :

- Quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.

- Bản tóm tắt lý lịch và vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

- Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

- Quyết định quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa vào cơ sở giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến việc quản lý, giáo dục đối tượng (nếu có).

b- Khi giao, nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải lập biên bản, trong đó phải ghi rõ tình trạng sức khỏe của người giao, nhận; hồ sơ, tài liệu kèm theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.

3- Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc người bị bắt giữ theo quyết định truy tìm, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khóa hoặc trói tay để áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì phải lập hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Xem nội dung VB
Điều 14. Thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người phải chấp hành quyết định vào cơ sở giáo dục.

Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi cơ sở giáo dục.

Khi nhận được quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp tỉnh trong việc đảm bảo thi hành quyết định đó.

2. Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục trước khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục thì Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 05 ngày để tiến hành các thủ tục cần thiết.

Thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục.

Công an cấp tỉnh phải bố trí nơi giành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp tỉnh.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trong trường hợp này.

3. Khi đưa người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo; hồ sơ gồm có:

a) Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

c) Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

d) Những tài liệu cần thiết khác có liên quan đến nhân thân của người phải chấp hành quyết định và để phục vụ cho việc quản lý, giáo dục người đó (nếu có).

4. Khi tiếp nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ, căn cước, chứng minh nhân dân và giấy tờ tùy thân khác của người đó và lập biên bản giao nhận, ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ, tình trạng sức khoẻ hiện tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VI. THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Trong thời hạn 5 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định; việc thi hành quyết định phải được lập biên bản theo mẫu quy định; biên bản được lập thành 2 (hai) bản, một bản lưu ở Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, một bản gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Trường hợp đối tượng có đơn đề nghị hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định thì phải tiếp nhận và xác minh ngay, nếu có đủ điều kiện để được hoãn hoặc miễn theo quy định của Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này thì Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội phải làm văn bản đề xuất Giám đốc Công an cấp tỉnh báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết định hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định cho người đó.

Thời gian chấp hành quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi chấp hành quyết định (bao gồm cả thời gian đi đường và thời gian được quản lý tại Công an cấp tỉnh).

2. Hồ sơ, thủ tục đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục:

a) Khu đưa người vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo, bao gồm:

- Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

- Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

- Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

- Quyết định quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa vào cơ sở giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến việc quản lý, giáo dục đối tượng (nếu có);

- Biên bản thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

b) Việc giao, nhận người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải lập biên bản, trong đó phải ghi rõ tình trạng sức khỏe của người được giao, nhận; hồ sơ, tài liệu kèm theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.

3. Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc người bị bắt giữ theo quyết định truy tìm, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khóa tay để áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật để buộc đối tượng phải chấp hành. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì phải lập hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 14. Thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người phải chấp hành quyết định vào cơ sở giáo dục.

Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi cơ sở giáo dục.

Khi nhận được quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp tỉnh trong việc đảm bảo thi hành quyết định đó.

2. Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục trước khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục thì Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 05 ngày để tiến hành các thủ tục cần thiết.

Thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục.

Công an cấp tỉnh phải bố trí nơi giành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp tỉnh.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trong trường hợp này.

3. Khi đưa người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo; hồ sơ gồm có:

a) Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

c) Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

d) Những tài liệu cần thiết khác có liên quan đến nhân thân của người phải chấp hành quyết định và để phục vụ cho việc quản lý, giáo dục người đó (nếu có).

4. Khi tiếp nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ, căn cước, chứng minh nhân dân và giấy tờ tùy thân khác của người đó và lập biên bản giao nhận, ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ, tình trạng sức khoẻ hiện tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 8 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 9 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
9. Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 16. Thời hiệu thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hết thời hiệu thi hành sau 01 năm, kể từ ngày ra quyết định. Trường hợp người bị đưa vào cơ sở giáo dục cố tình trốn tránh việc thi hành thì thời hiệu nêu trên được tính lại kể từ thời điểm hành vi trốn tránh được chấm dứt.

2. Trường hợp người bị đưa vào cơ sở giáo dục thực hiện hành vi vi phạm tội trong thời gian bỏ trốn và bị Tòa án xử phạt tù giam thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù giam, người đó phải tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; trường hợp hình phạt do Tòa án tuyên không phải là hình phạt tù giam thì phải chấp hành ngay quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của Nghị định này”.

Xem nội dung VB
Điều 16. Thời hiệu thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hết thời hiệu thi hành sau một năm, kể từ ngày ra quyết định. Trường hợp người bị đưa vào cơ sở giáo dục cố tình trốn tránh việc thi hành thì thời hiệu nêu trên được tính lại kể từ thời điểm hành vi trốn tránh được chấm dứt.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 9 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 10 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
10. Điều 19 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 19. Tổ chức cơ sở giáo dục

1. Tổ chức bộ máy của cơ sở giáo dục gồm có Giám đốc, các Phó Giám đốc; Đội trưởng, Đội phó; Trưởng phân khu, Phó Trưởng phân khu; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang bảo vệ và công nhân viên.

2. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phân khu, Phó Trưởng phân khu, Đội trưởng, quyết định biên chế, tổ chức bộ máy của cơ sở giáo dục do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.

3. Quy mô mỗi cơ sở giáo dục quản lý từ 500 đến 3.000 trại viên. Cơ sở giáo dục có trên 1.000 trại viên có thể thành lập các phân khu theo quy định của Bộ Công an. Trong cơ sở giáo dục phải bố trí khu vực, buồng riêng (mỗi buồng không quá 15 người) để quản lý đối tượng đang được cai nghiện ma túy, quản lý trại viên nhiều lần vi phạm Nội quy, thường xuyên chống đối làm ảnh hưởng tiêu cực đến trại viên khác.”

Xem nội dung VB
Điều 19. Tổ chức cơ sở giáo dục

1. Tổ chức, bộ máy của cơ sở giáo dục gồm có Giám đốc, các Phó giám đốc, cán bộ quản lý, giáo dục, dạy văn hoá, dạy nghề; cán bộ hậu cần, kỹ thuật, y tế và lực lượng Cảnh sát bảo vệ.

2. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc, Phó giám đốc cơ sở giáo dục; quyết định biên chế và tổ chức bộ máy của cơ sở giáo dục do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.

Quy mô mỗi cơ sở giáo dục quản lý từ 500 đến 2.500 trại viên. Cơ sở giáo dục có trên 1.000 trại viên có thể thành lập các phân khu theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 10 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 11 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
11. Điều 21 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 21. Tiêu chuẩn của Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phân khu, Phó Trưởng phân khu, Đội trưởng, Đội phó, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên cơ sở giáo dục.

1. Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phân khu, Phó Trưởng phân khu, Đội trưởng, Đội phó, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên phải là người có phẩm chất chính trị tốt, trung thành với chế độ, với Đảng, có ý thức tổ chức kỷ luật, nắm vững đường lối, chính sách, hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.

2. Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phân khu, Đội trưởng phải là người đã tốt nghiệp một trong các trường: Học viện Cảnh sát nhân dân; Học viện An ninh nhân dân; Đại học Cảnh sát nhân dân; Đại học An ninh nhân dân; Đại học Luật; Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn; Đại học Sư phạm; Đại học Y khoa hoặc tương đương và có kinh nghiệm quản lý, giáo dục những người vi phạm pháp luật.

3. Phó Trưởng phân khu, Đội phó, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan vũ trang bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp Trung học Cảnh sát nhân dân, Trung học An ninh nhân dân trở lên hoặc có trình độ tương đương.

4. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật phải là người có trình độ trung học chuyên nghiệp trở lên về lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhận.

Hạ sĩ quan, chiến sĩ bảo vệ phải là người đã được đào tạo, huấn huyện về nghiệp vụ công tác bảo vệ.

Công nhân viên phải là người được đào tạo, nắm vững kiến thức về lĩnh vực công tác chuyên môn mà mình đảm nhận.”

Xem nội dung VB
Điều 21. Tiêu chuẩn của Giám đốc, Phó giám đốc và cán bộ, nhân viên cơ sở giáo dục

1. Giám đốc, Phó giám đốc, cán bộ quản lý, giáo dục, cán bộ hậu cần, y tế và Cảnh sát bảo vệ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật.

2. Giám đốc, Phó giám đốc phải là người tốt nghiệp một trong các trường: Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, Đại học Luật, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Sư phạm và phải có kinh nghiệm về quản lý, giáo dục những người vi phạm pháp luật.

3. Cán bộ quản lý, giáo dục, cán bộ dạy văn hoá, dạy nghề và chỉ huy lực lượng Cảnh sát bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp Trung học Cảnh sát, Trung học An ninh hoặc tương đương trở lên.

4. Sĩ quan, chiến sĩ Cảnh sát làm nhiệm vụ quản lý, dẫn giải, bảo vệ phải là những người đã được đào tạo, huấn luyện về nghiệp vụ chuyên ngành theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 3 Mục XII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XII. THÀNH LẬP VÀ QUẢN LÝ CƠ SỞ GIÁO DỤC
...
3. Giám đốc, Phó Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bằng tốt nghiệp một trong các học viện, trường đại học: Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân, Luật, Sư phạm, Khoa học xã hội và nhân văn và phải có kiến thức, kinh nghiệm về quản lý, giáo dục người vi phạm pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 21. Tiêu chuẩn của Giám đốc, Phó giám đốc và cán bộ, nhân viên cơ sở giáo dục

1. Giám đốc, Phó giám đốc, cán bộ quản lý, giáo dục, cán bộ hậu cần, y tế và Cảnh sát bảo vệ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật.

2. Giám đốc, Phó giám đốc phải là người tốt nghiệp một trong các trường: Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, Đại học Luật, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Sư phạm và phải có kinh nghiệm về quản lý, giáo dục những người vi phạm pháp luật.

3. Cán bộ quản lý, giáo dục, cán bộ dạy văn hoá, dạy nghề và chỉ huy lực lượng Cảnh sát bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp Trung học Cảnh sát, Trung học An ninh hoặc tương đương trở lên.

4. Sĩ quan, chiến sĩ Cảnh sát làm nhiệm vụ quản lý, dẫn giải, bảo vệ phải là những người đã được đào tạo, huấn luyện về nghiệp vụ chuyên ngành theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 11 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 3 Mục XII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
12. Điều 28 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 28. Chế độ ăn, mặc

1. Mỗi năm, mỗi trại viên được cấp 02 bộ quần áo dài, 02 bộ quần áo lót, 02 khăn mặt, 01 đôi dép, 02 bàn chải đánh răng, 02 chiếc chiếu cá nhân, 01 áo mưa, 01 chiếc mũ che mưa, nắng; mỗi quý được cấp 01 hộp kem đánh răng 150 gam, 0,6 kg xà phòng; 02 năm được cấp 01 chăn sợi, 01 màn; đối với trại viên ở các cơ sở giáo dục từ Thừa Thiên Huế trở ra được cấp thêm 01 áo ấm và 01 chăn bông nhưng không quá 02 kg dùng trong 02 năm.

Trại viên là phụ nữ được cấp tiền vệ sinh cá nhân mỗi tháng tương đương với 02 kg gạo tính theo giá thị trường của từng địa phương.

2. Định mức ăn hàng tháng của trại viên được quy định như sau: gạo 17kg, thịt hoặc cá 1,5kg, đường bình thường 0,5 kg, muối 1,0kg, bột ngọt 500 gam, nước mắm 01 lít, rau xanh 15kg, chất đốt 15kg củi hoặc tương đương. Ngày lễ, ngày Tết dương lịch được ăn thêm không quá 03 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết Nguyên đán được ăn thêm không quá 05 lần tiêu chuẩn ngày thường. Đối với những người lao động nặng hoặc trong môi trường độc hại có thể tăng thêm 15% so với tiêu chuẩn, định lượng trên. Các tiêu chuẩn ăn được tính theo giá thị trường của từng địa phương.

3. Chế độ ăn, nghỉ của trại viên bị bệnh do Giám đốc cơ sở quyết định theo chỉ định của cơ quan y tế.”

Xem nội dung VB
Điều 28. Chế độ ăn, mặc

1. Mỗi năm, mỗi trại viên được cấp 02 bộ quần áo dài, 02 bộ quần áo lót, 02 khăn mặt, 01 đôi dép, 01 bàn chải đánh răng, 01 áo mưa, 01 chiếc mũ che mưa nắng; mỗi quý được cấp 01 hộp kem đánh răng, 0,6 kg xà phòng; 02 năm được cấp 01 chăn, 01 màn; đối với những vùng rét phía bắc, trại viên được cấp thêm 01 áo ấm và 01 chăn bông dùng trong 02 năm.

Trại viên là phụ nữ được cấp tiền vệ sinh cá nhân mỗi tháng tương đương với 02 kg gạo tính theo giá thị trường của từng địa phương.

2. Định mức ăn hàng tháng của trại viên được quy định như sau: gạo 15 kg, thịt hoặc cá 0,8 kg, đường 0,3 kg, muối 0,5 kg, nước mắm 01 lít, rau xanh 15 kg, chất đốt 15 kg củi hoặc tương đương. Ngày lễ, ngày Tết dương lịch được ăn thêm không quá 03 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết Nguyên đán được ăn thêm không quá 05 lần tiêu chuẩn ngày thường. Đối với những người lao động nặng hoặc trong môi trường độc hại, định lượng ăn trong tháng có thể tăng thêm theo quy định của pháp luật. Các tiêu chuẩn ăn được tính theo giá thị trường của từng địa phương.

3. Chế độ ăn, nghỉ đối với trại viên bị bệnh do Giám đốc cơ sở giáo dục quyết định theo chỉ định của cơ quan y tế.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 13 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
13. Điều 29 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 29. Chế độ sinh hoạt, học tập

1. Trại viên được hoạt động thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí; được đọc sách, báo, nghe đài, nghe phổ biến thời sự, chính sách, được xem vô tuyến truyền hình theo quy định của Bộ Công an.

Mỗi cơ sở giáo dục được thành lập 01 thư viện, khu vui chơi, sân thể thao. Cứ 30 trại viên được phát 01 tờ báo Nhân dân và 01 tờ báo Pháp luật. Mỗi phân khu được trang bị hệ thống truyền thanh hoặc 01 hệ thống truyền hình cáp nội bộ, mỗi buồng ở tập thể được trang bị 01 vô tuyến truyền hình màu 21 inches trở lên.

2. Trại viên được học các chương trình giáo dục công dân mỗi tuần 01 buổi, mỗi buổi 04 giờ.

3. Trại viên mù chữ phải học văn hóa để xóa mù chữ mỗi tuần 02 buổi, mỗi buổi 4 giờ.

4. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục có thể sắp xếp thời gian học văn hóa cho những đối tượng khác và bố trí cho trại viên lao động kết hợp với học những nghề phù hợp.

5. Kinh phí hàng tháng chi cho việc học văn hóa, học nghề, giáo dục công dân cho mỗi trại viên tương đương với 03 kg gạo tính theo giá thị trường của từng địa phương.

6. Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chương trình học tập và đào tạo, bố trí giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề cho các cơ sở giáo dục.”

Xem nội dung VB
Điều 29. Chế độ sinh hoạt, học tập

1. Trại viên được hoạt động thể dục thể thao, văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí; được đọc sách, báo, nghe đài, nghe phổ biến thời sự, chính sách, được xem vô tuyến truyền hình theo quy định của Bộ Công an.

2. Trại viên được học văn hoá để xoá mù chữ mỗi tuần 2 buổi, mỗi buổi 4 giờ. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cơ sở giáo dục, Giám đốc có thể sắp xếp thời gian học văn hoá cho những đối tượng khác.

3. Trại viên được học các chương trình giáo dục công dân mỗi tuần một buổi, mỗi buổi 4 giờ.

4. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, cơ sở giáo dục, có thể bố trí cho trại viên lao động kết hợp với học những nghề phù hợp.

5. Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chương trình học tập và đào tạo, bố trí giáo viên dạy văn hoá, dạy nghề cho các cơ sở giáo dục.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 13 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 14 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
14. Điều 32 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 32. Chế độ khám, chữa bệnh và giải quyết trường hợp trại viên bị chết

1. Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức cai nghiện cho các trại viên còn nghiện ma túy. Kinh phí tổ chức cai nghiện ma túy do ngân sách nhà nước cấp.

2. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục tổ chức khám sức khỏe định kỳ và có biện pháp phòng bệnh cho trại viên. Tiền thuốc, khám, chữa bệnh thường xuyên hàng tháng cho mỗi trại viên được cấp tương đương với 02 kg gạo theo giá thị trường của từng địa phương.

Trường hợp trại viên bị bệnh, thì căn cứ vào chỉ định của cán bộ y tế, Giám đốc cơ sở giáo dục xét cho họ tạm nghỉ lao động, học tập hoặc giảm định mức, giảm giờ lao động trong thời gian bị bệnh; trường hợp cần thiết thì cho điều trị tại bệnh xá của cơ sở hoặc cho đi bệnh viện; trường hợp bệnh nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì Giám đốc cơ sở giáo dục báo cáo Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.

Trường hợp trại viên bị thương tích do tai nạn lao động, thiên tai, hỏa hoạn thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải làm các thủ tục để thực hiện chế độ trợ cấp cho trại viên theo quy định.

Trường hợp trại viên có biểu hiện của bệnh thần kinh thì Giám đốc cơ sở giáo dục có văn bản gửi Bệnh viện tâm thần Trung ương theo khu vực và cử cán bộ đưa trại viên đến để đề nghị giám định tâm thần. Các bệnh viện tâm thần Trung ương theo khu vực có trách nhiệm giám định tâm thần cho trại viên và có kết luận bằng văn bản gửi Giám đốc cơ sở giáo dục để giải quyết theo quy định của pháp luật.

3. Khi có trại viên bị chết thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo ngay cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân có thẩm quyền đến lập biên bản làm rõ nguyên nhân chết, có trại viên cùng cơ sở giáo dục làm chứng và làm thủ tục khai tử với chính quyền địa phương. Sau đó phải gửi giấy chứng tử cho gia đình người chết biết và thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trước đây họ cư trú.

Trường hợp trại viên chết do bị HIV/AIDS có kết luận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên thì Giám đốc cơ sở giáo dục mời đại diện Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ sở y tế, đại diện hợp pháp của trại viên chết (nếu có) đến để lập biên bản theo quy định và không cần giám định pháp y.

Trường hợp trại viên chết khi đang điều trị tại các cơ sở y tế nhà nước từ cấp huyện trở lên thì cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo và gửi giấy chứng tử cho cơ sở giáo dục.

Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức mai táng tử thi; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Nếu thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của trại viên chết có đơn đề nghị được nhận tử thi về để mai táng hoặc đề nghị được nhận hài cốt đã được địa táng đủ 03 năm trở lên thì Giám đốc cơ sở giáo dục xem xét, quyết định cho nhận thi thể, hài cốt. Đơn đề nghị phải có xác nhận Ủy ban nhân dân cấp xã và phải cam đoan thực hiện đúng các quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường.”

Xem nội dung VB
Điều 32. Chế độ khám, chữa bệnh và giải quyết trường hợp trại viên bị chết

1. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục tổ chức khám sức khoẻ và có biện pháp phòng bệnh cho trại viên. Tiền thuốc, khám, chữa bệnh thường xuyên hàng tháng cho mỗi trại viên được cấp tương đương với 02kg gạo theo giá thị trường của từng địa phương.

Trường hợp trại viên bị bệnh, thì căn cứ vào chỉ định của cán bộ y tế, Giám đốc cơ sở giáo dục xét cho họ tạm nghỉ lao động, học tập hoặc giảm định mức, giảm giờ lao động trong thời gian bị bệnh; trường hợp cần thiết thì cho điều trị tại bệnh xá của cơ sở hoặc cho đi bệnh viện; trường hợp ốm nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì Giám đốc cơ sở giáo dục báo cáo Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.

2. Trường hợp trại viên bị chết thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân gần nhất đến lập biên bản xác nhận nguyên nhân chết, có trại viên cùng cơ sở giáo dục làm chứng, đồng thời, phải gửi giấy báo tử cho gia đình người chết biết và thông báo cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi trước đây họ cư trú.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức mai táng tử thi; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Trong trường hợp thân nhân người chết có đơn đề nghị đưa tử thi về mai táng thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể quyết định cho họ đưa tử thi về mai táng.

Đơn đề nghị đưa tử thi về mai táng phải có xác nhận Uỷ ban nhân dân cấp xã và phải cam đoan thực hiện đúng các quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 14 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 15 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
15. Điều 33 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 33. Chế độ thăm gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà

1. Trại viên được gặp người thân mỗi tháng 02 lần, mỗi lần không quá 02 giờ tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục và phải chấp hành đúng những quy định về thăm gặp. Trường hợp gặp lâu hơn thì phải được sự đồng ý của Giám đốc cơ sở giáo dục, nhưng cũng không quá 04 giờ.

Trại viên có nhiều cố gắng trong lao động, học tập, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể cho gặp vợ hoặc chồng đến 48 giờ và được ở lại qua đêm tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục.

2. Người đến thăm trại viên phải có Giấy chứng minh nhân dân, đơn xin thăm, nếu là vợ hoặc chồng đến thăm và được nghỉ qua đêm thì phải có thêm giấy đăng ký kết hôn.

3. Trại viên được nhận và gửi thư; được nhận quà, tiền (Việt Nam); được liên lạc với thân nhân trong nước bằng điện thoại mỗi tháng từ 01 đến 02 lần, mỗi lần không quá 05 phút. Các cuộc điện thoại, thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục. Riêng tiền mặt, trại viên phải gửi vào bộ phận lưu ký của cơ sở giáo dục để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.”

Xem nội dung VB
Điều 33. Chế độ thăm gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà

1. Trại viên được gặp người thân mỗi tháng 02 lần, mỗi lần không quá 2 giờ tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục và phải chấp hành đúng những quy định về thăm gặp. Trường hợp gặp lâu hơn thì phải được sự đồng ý của Giám đốc cơ sở giáo dục, nhưng cũng không quá 4 giờ.

Trại viên có nhiều cố gắng trong lao động, học tập, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể cho gặp vợ hoặc chồng đến 48 giờ và được ở lại qua đêm tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục.

2. Người đến thăm trại viên phải có giấy chứng minh nhân dân, đơn xin thăm, nếu là vợ hoặc chồng đến thăm và được nghỉ qua đêm thì phải có thêm giấy đăng ký kết hôn.

3. Trại viên được nhận và gửi thư; được nhận quà, tiền (Việt Nam); các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục. Riêng tiền mặt, trại viên phải gửi vào bộ phận lưu ký của cơ sở giáo dục để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XVI Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XVI- CHẾ ĐỘ THĂM GẶP NGƯỜI THÂN, NHẬN, GỬI THƯ, NHẬN TIỀN, QUÀ :

Chế độ thăm gặp người thân, nhận, gửi thư, nhận tiền, quà của trại viên cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 33 Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.

Khi gặp gỡ thân nhân, trại viên được nhận quà, thư và tiền. Mỗi tháng, trại viên đượ gửi 02 lá thư và được nhận một gói quà không quá 07 kg, các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục.

Xem nội dung VB
Điều 33. Chế độ thăm gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà

1. Trại viên được gặp người thân mỗi tháng 02 lần, mỗi lần không quá 2 giờ tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục và phải chấp hành đúng những quy định về thăm gặp. Trường hợp gặp lâu hơn thì phải được sự đồng ý của Giám đốc cơ sở giáo dục, nhưng cũng không quá 4 giờ.

Trại viên có nhiều cố gắng trong lao động, học tập, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể cho gặp vợ hoặc chồng đến 48 giờ và được ở lại qua đêm tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục.

2. Người đến thăm trại viên phải có giấy chứng minh nhân dân, đơn xin thăm, nếu là vợ hoặc chồng đến thăm và được nghỉ qua đêm thì phải có thêm giấy đăng ký kết hôn.

3. Trại viên được nhận và gửi thư; được nhận quà, tiền (Việt Nam); các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục. Riêng tiền mặt, trại viên phải gửi vào bộ phận lưu ký của cơ sở giáo dục để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 2 Mục XIII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XIII. CHẾ ĐỘ ĂN, MẶC, THĂM GẶP NGƯỜI THÂN; NHẬN, GỬI THƯ; NHẬN TIỀN, QUÀ CỦA TRẠI VIÊN
...
2. Chế độ thăm gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà của trại viên cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 33 Nghị định số 76 đã sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại Thông tư này.

Khi gặp gỡ thân nhân, trại viên được nhận quà, thư và tiền. Riêng tiền mặt, phải gửi vào bộ phận lưu ký của Cơ sở giáo dục. Mỗi tháng, trại viên được 2 (hai) lần gửi thư và được nhận 1 (một) gói quà không quá 7 kg (bảy); các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục. Trại viên được liên lạc với người thân trong nước bằng điện thoại mỗi tháng từ 1 đến 2 lần, mỗi lần không quá 05 phút theo quy định cụ thể của Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng.

Xem nội dung VB
Điều 33. Chế độ thăm gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà

1. Trại viên được gặp người thân mỗi tháng 02 lần, mỗi lần không quá 2 giờ tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục và phải chấp hành đúng những quy định về thăm gặp. Trường hợp gặp lâu hơn thì phải được sự đồng ý của Giám đốc cơ sở giáo dục, nhưng cũng không quá 4 giờ.

Trại viên có nhiều cố gắng trong lao động, học tập, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có thể cho gặp vợ hoặc chồng đến 48 giờ và được ở lại qua đêm tại nhà tiếp đón của cơ sở giáo dục.

2. Người đến thăm trại viên phải có giấy chứng minh nhân dân, đơn xin thăm, nếu là vợ hoặc chồng đến thăm và được nghỉ qua đêm thì phải có thêm giấy đăng ký kết hôn.

3. Trại viên được nhận và gửi thư; được nhận quà, tiền (Việt Nam); các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục. Riêng tiền mặt, trại viên phải gửi vào bộ phận lưu ký của cơ sở giáo dục để sử dụng theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 15 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XVI Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 2 Mục XIII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 16 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
16. Điều 38 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 38. Trách nhiệm của Bộ Y tế

Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn việc cai nghiệm ma túy; phòng bệnh, chữa bệnh cho người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục”.

Xem nội dung VB
Điều 38. Trách nhiệm của Bộ Y tế

Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn việc phòng bệnh; khám, chữa bệnh cho người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 16 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Nghị định 118/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2011 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

1. Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 22. Điều chuyển trại viên

Để phù hợp với quy mô quản lý trại viên của các cơ sở giáo dục hoặc do yêu cầu nghiệp vụ, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp ra quyết định điều chuyển trại viên từ cơ sở giáo dục này sang cơ sở giáo dục khác theo quy định của Bộ Công an.”

Xem nội dung VB
Điều 22. Điều chuyển trại viên

Để phù hợp với quy mô quản lý trại viên của các cơ sở giáo dục hoặc do yêu cầu nghiệp vụ, Cục trưởng Cục quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng có thể ra quyết định điều chuyển trại viên từ cơ sở giáo dục này sang cơ sở giáo dục khác theo quy định của Bộ Công an.
Điều này được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Nghị định 118/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2011 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Khoản này được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Nghị định 118/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2011 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
...
2. Khoản 3 Điều 25 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“3. Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp quyết định việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở giáo dục. Quyết định này phải được gửi đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.”

Xem nội dung VB
Điều 25. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục
...
3. Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng quyết định việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở giáo dục. Quyết định này phải được gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.
Khoản này được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Nghị định 118/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2011 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Khoản này được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 118/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2011 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
...
3. Khoản 1 Điều 26 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“1. Khi người bị đưa vào cơ sở giáo dục đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục cấp Giấy chứng nhận cho người đó và gửi bản sao Giấy chứng nhận đến Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong trường hợp người đó đã chấp hành xong quyết định mà vẫn chưa thực sự tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi cơ quan Công an cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong thời hạn năm ngày, kể từ khi về địa phương, người đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục phải đến trình diện Công an xã, phường, thị trấn nơi họ về cư trú.”

Xem nội dung VB
Điều 26. Hết hạn chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Khi người bị đưa vào cơ sở giáo dục đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục cấp giấy chứng nhận cho người đó và gửi bản sao Giấy chứng nhận đến Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong trường hợp người đã chấp hành xong quyết định mà vẫn chưa thực sự tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi cơ quan Công an cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong thời hạn 05 ngày, kể từ khi về địa phương, người đã chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở giáo dục phải đến trình diện Công an xã, phường, thị trấn nơi họ về cư trú.
Khoản này được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 118/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2011 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Chương này được bổ sung bởi Khoản 2 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
...
2. Bổ sung Điều 3b như sau:

“Điều 3b. Các trường hợp không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

1. Người nước ngoài.

2. Người chưa đủ 18 tuổi.

3. Người trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam.

Thời điểm tính độ tuổi nêu tại khoản 2, khoản 3 Điều này là ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục. Căn cứ pháp lý để xác định độ tuổi là Giấy khai sinh, nếu không có Giấy khai sinh thì phải căn cứ vào Giấy chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu. Trong trường hợp không có các giấy tờ nêu trên thì căn cứ vào lời khai và tài liệu có giá trị khác để xác định độ tuổi.

Trường hợp người đã bị lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng đến ngày ký quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thì họ đã trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam hoặc người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại, đã trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam thì không ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, trường hợp đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi quyết định đó và chuyển hồ sơ để Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với họ theo quy định của pháp luật”.

Xem nội dung VB
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
...
Điều 2. Đưa vào cơ sở giáo dục
...
Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục
...
Điều 4. Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
...
Điều 5. Nguyên tắc xử lý
...
Điều 6. Thành lập và quản lý cơ sở giáo dục
...
Điều 7. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
...
Điều 8. Giải thích từ ngữ
Chương này được bổ sung bởi Khoản 2 Điều 1 Nghị định 125/2008/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 31/12/2008 (VB hết hiệu lực: 25/02/2014)
Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
I- ĐỐI TƯỢNG ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Việc xác định đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định của khoản 2, điều 25 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, khoản 1, điều 3, Nghị định 76/2003/NĐ-CP ngày 27/6/2003 của Chính phủ về quy định và hướng dẫn cục thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (sau đây viết tắt là Nghị định số 76) và hướng dẫn tại Thông tư này.

2- Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định :

a- Xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài.

b- Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài.

c- Đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật.

d- Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

đ- Tổ chức, môi giới mại dâm.

e- Gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ.

g- Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

h- Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

i- Các hành vi khác vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.

3- Để bảo đảm đưa người vào cơ sở giáo dục đúng quy định, tránh oan, sai, đồng thời không để lọt đối tượng, trong quá trình xem xét, lập hồ sơ, cần chú ý : hành vi vi phạm đó phải chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và phải có tính chất thường xuyên. Các trường hợp sau đây được coi là vi phạm có tính chất thường xuyên :

a- Người không có nơi cư trú nhất định có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng. Các trường hợp sau đây được coi là không có nơi cư trú nhất định :

- Không xác định được nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.

- Có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống tại đó và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.

b- Người có nơi cư trú nhất định đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng sau đó lại thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này. Các trường hợp sau đây được coi là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn :

- Đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.

- Đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà lại có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.

Cần lưu ý : Đối với người có nơi cư trú nhất định, trong mọi trường hợp đều nhất thiết phải có điều kiện là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì mới có thể lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

4- Các trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2 và khoản 7, điều 9, Nghị định số 76 cũng phải có đủ các điều kiện quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.

5- Trong trường hợp hành vi vi phạm lần sau cũng đã được cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng sau khi xem xét, không đủ điều kiện để đề nghị áp dụng biện pháp này hoặc đã đề nghị nhưng không được Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử phạt theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được hồ sơ.

Trong thời hạn nêu trên, nếu người đó lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy định tại điểm này mà thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính sẽ được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.

6- Trường hợp một người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì theo quy định tại điều 113 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và điều 12 Nghị định số 76, cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Trong trường hợp cơ quan Công an đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục mà phát hiện người đó thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh được quy định tại điều 26, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì phải chuyển ngay toàn bộ hồ sơ đó cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

7- Đối với trường hợp đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì theo quy định tại khoản 2, điều 52 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung, mà không cần phải có điều kiện là đã bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Xem nội dung VB
Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong một năm), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

d) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đ) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.
Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
I- ĐỐI TƯỢNG ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Việc xác định đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định của khoản 2, điều 25 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, khoản 1, điều 3, Nghị định 76/2003/NĐ-CP ngày 27/6/2003 của Chính phủ về quy định và hướng dẫn cục thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (sau đây viết tắt là Nghị định số 76) và hướng dẫn tại Thông tư này.

2- Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định :

a- Xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài.

b- Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài.

c- Đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật.

d- Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

đ- Tổ chức, môi giới mại dâm.

e- Gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ.

g- Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

h- Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

i- Các hành vi khác vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.

3- Để bảo đảm đưa người vào cơ sở giáo dục đúng quy định, tránh oan, sai, đồng thời không để lọt đối tượng, trong quá trình xem xét, lập hồ sơ, cần chú ý : hành vi vi phạm đó phải chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và phải có tính chất thường xuyên. Các trường hợp sau đây được coi là vi phạm có tính chất thường xuyên :

a- Người không có nơi cư trú nhất định có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng. Các trường hợp sau đây được coi là không có nơi cư trú nhất định :

- Không xác định được nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.

- Có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống tại đó và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.

b- Người có nơi cư trú nhất định đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng sau đó lại thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này. Các trường hợp sau đây được coi là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn :

- Đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.

- Đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà lại có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.

Cần lưu ý : Đối với người có nơi cư trú nhất định, trong mọi trường hợp đều nhất thiết phải có điều kiện là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì mới có thể lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

4- Các trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2 và khoản 7, điều 9, Nghị định số 76 cũng phải có đủ các điều kiện quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.

5- Trong trường hợp hành vi vi phạm lần sau cũng đã được cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng sau khi xem xét, không đủ điều kiện để đề nghị áp dụng biện pháp này hoặc đã đề nghị nhưng không được Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử phạt theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được hồ sơ.

Trong thời hạn nêu trên, nếu người đó lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy định tại điểm này mà thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính sẽ được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.

6- Trường hợp một người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì theo quy định tại điều 113 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và điều 12 Nghị định số 76, cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Trong trường hợp cơ quan Công an đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục mà phát hiện người đó thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh được quy định tại điều 26, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì phải chuyển ngay toàn bộ hồ sơ đó cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

7- Đối với trường hợp đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì theo quy định tại khoản 2, điều 52 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung, mà không cần phải có điều kiện là đã bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Xem nội dung VB
Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong một năm), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

d) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đ) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.
Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
I- ĐỐI TƯỢNG ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Việc xác định đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định của khoản 2, điều 25 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, khoản 1, điều 3, Nghị định 76/2003/NĐ-CP ngày 27/6/2003 của Chính phủ về quy định và hướng dẫn cục thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (sau đây viết tắt là Nghị định số 76) và hướng dẫn tại Thông tư này.

2- Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định :

a- Xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài.

b- Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài.

c- Đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật.

d- Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

đ- Tổ chức, môi giới mại dâm.

e- Gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ.

g- Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

h- Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

i- Các hành vi khác vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.

3- Để bảo đảm đưa người vào cơ sở giáo dục đúng quy định, tránh oan, sai, đồng thời không để lọt đối tượng, trong quá trình xem xét, lập hồ sơ, cần chú ý : hành vi vi phạm đó phải chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và phải có tính chất thường xuyên. Các trường hợp sau đây được coi là vi phạm có tính chất thường xuyên :

a- Người không có nơi cư trú nhất định có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng. Các trường hợp sau đây được coi là không có nơi cư trú nhất định :

- Không xác định được nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.

- Có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống tại đó và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.

b- Người có nơi cư trú nhất định đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng sau đó lại thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này. Các trường hợp sau đây được coi là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn :

- Đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.

- Đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà lại có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.

Cần lưu ý : Đối với người có nơi cư trú nhất định, trong mọi trường hợp đều nhất thiết phải có điều kiện là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì mới có thể lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

4- Các trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2 và khoản 7, điều 9, Nghị định số 76 cũng phải có đủ các điều kiện quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.

5- Trong trường hợp hành vi vi phạm lần sau cũng đã được cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng sau khi xem xét, không đủ điều kiện để đề nghị áp dụng biện pháp này hoặc đã đề nghị nhưng không được Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử phạt theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được hồ sơ.

Trong thời hạn nêu trên, nếu người đó lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy định tại điểm này mà thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính sẽ được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.

6- Trường hợp một người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì theo quy định tại điều 113 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và điều 12 Nghị định số 76, cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Trong trường hợp cơ quan Công an đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục mà phát hiện người đó thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh được quy định tại điều 26, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì phải chuyển ngay toàn bộ hồ sơ đó cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

7- Đối với trường hợp đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì theo quy định tại khoản 2, điều 52 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung, mà không cần phải có điều kiện là đã bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Xem nội dung VB
Điều 3. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

1. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong một năm), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định:

a) Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;

b) Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;

c) Gây rối trật tự công cộng; chống người thi hành công vụ;

d) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đ) Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.
Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
V- HỘI ĐỒNG TƯ VẤN VỀ VIỆC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại điều 10, Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn về việc đưa người vào cơ sở giáo dục bao gồm :

a- Giám đốc Công an - Thường trực Hội đồng.

b- Giám đốc Sở Tư pháp - Thành viên.

c- Giám đốc Sở Lao động-TBXH - “

d- Chủ tịch UBMTTQ.VN cấp tỉnh - “

2- Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn. Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân có thể phát biểu ý kiến tham gia nhưng không biểu quyết, trường hợp đại diện thường trực Hội đồng Nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng Tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.

Xem nội dung VB
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
IV. HỘI ĐỒNG TƯ VẤN

1. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn bao gồm:

a) Giám đốc Công an cấp tỉnh – Thường trực Hội đồng;

b) Giám đốc Sở Tư pháp – Thành viên;

c) Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội – Thành viên;

d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh – Thành viên;

2. Đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn nhưng không tham gia biểu quyết. Trường hợp đại diện thường trực Hội đồng nhân dân hoặc đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.

Xem nội dung VB
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
V- HỘI ĐỒNG TƯ VẤN VỀ VIỆC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại điều 10, Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn về việc đưa người vào cơ sở giáo dục bao gồm :

a- Giám đốc Công an - Thường trực Hội đồng.

b- Giám đốc Sở Tư pháp - Thành viên.

c- Giám đốc Sở Lao động-TBXH - “

d- Chủ tịch UBMTTQ.VN cấp tỉnh - “

2- Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn. Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân có thể phát biểu ý kiến tham gia nhưng không biểu quyết, trường hợp đại diện thường trực Hội đồng Nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng Tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.

Xem nội dung VB
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
IV. HỘI ĐỒNG TƯ VẤN

1. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn bao gồm:

a) Giám đốc Công an cấp tỉnh – Thường trực Hội đồng;

b) Giám đốc Sở Tư pháp – Thành viên;

c) Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội – Thành viên;

d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh – Thành viên;

2. Đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn nhưng không tham gia biểu quyết. Trường hợp đại diện thường trực Hội đồng nhân dân hoặc đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.

Xem nội dung VB
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
V- HỘI ĐỒNG TƯ VẤN VỀ VIỆC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại điều 10, Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn về việc đưa người vào cơ sở giáo dục bao gồm :

a- Giám đốc Công an - Thường trực Hội đồng.

b- Giám đốc Sở Tư pháp - Thành viên.

c- Giám đốc Sở Lao động-TBXH - “

d- Chủ tịch UBMTTQ.VN cấp tỉnh - “

2- Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn. Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân có thể phát biểu ý kiến tham gia nhưng không biểu quyết, trường hợp đại diện thường trực Hội đồng Nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng Tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.

Xem nội dung VB
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
IV. HỘI ĐỒNG TƯ VẤN

1. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn bao gồm:

a) Giám đốc Công an cấp tỉnh – Thường trực Hội đồng;

b) Giám đốc Sở Tư pháp – Thành viên;

c) Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội – Thành viên;

d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh – Thành viên;

2. Đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn nhưng không tham gia biểu quyết. Trường hợp đại diện thường trực Hội đồng nhân dân hoặc đại diện Văn phòng Ủy ban nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.

Xem nội dung VB
Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập gồm Giám đốc Công an, Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó Giám đốc Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ, làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, kết luận theo đa số. Trường hợp các ý kiến biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến có biểu quyết của thường trực Hội đồng tư vấn. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

3. Đại diện Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 14. Thi hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục
...
2. Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục trước khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục thì Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 05 ngày để tiến hành các thủ tục cần thiết.

Thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục.

Công an cấp tỉnh phải bố trí nơi giành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp tỉnh.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trong trường hợp này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IX Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
IX- TRUY TÌM VÀ BẮT GIỮ ĐỐI TƯỢNG ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC BỎ TRỐN :

1- Việc truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn phải thực hiện theo đúng quy định tại điều 17, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.

2- Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn trước khi đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện (nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ) ra quyết định truy tìm. Trường hợp Công an cấp tỉnh đã nhận đối tượng để đưa đi chấp hành quyết định mà đối tượng bỏ trốn trên đường dẫn giải hoặc bỏ trốn trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Công an cấp tỉnh phải chuyển giao hồ sơ, tài liệu (quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, biên bản đối tượng bỏ trốn và các tài liệu khác có liên quan) cho Công an cấp huyện để ra quyết định truy tìm.

3- Trường hợp trại viên cơ sở giáo dục bọ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định truy tìm. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.

4- Tùy từng trường hợp cụ thể mà quyết định truy tìm sẽ được gửi cho cơ quan Công an và UBND địa phương nơi cần thiết để phục vụ cho việc truy tìm và bắt giữ đối tượng.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà bỏ trốn trước khi được đưa vào cơ sở thì Trưởng Công an cấp huyện nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ ra quyết định truy tìm.

2. Trường hợp trại viên cơ sở giáo dục bỏ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định truy tìm. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.

3. Cơ quan đã ra quyết định truy tìm có trách nhiệm tổ chức truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn. Khi tiến hành bắt giữ, nếu đối tượng có hành vi chống đối thì được áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định tại Điều 15 Nghị định này để buộc người đó phải chấp hành.

Uỷ ban nhân dân và Công an các cấp có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ các cơ quan nói trên trong việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.

Khi phát hiện đối tượng có quyết định truy tìm, mọi người đều có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan Công an, Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất hoặc bắt và dẫn giải ngay đối tượng đến các cơ quan nói trên.

4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VIII. TRUY TÌM VÀ BẮT GIỮ ĐỐI TƯỢNG TRỐN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

Việc truy tìm và bắt giữ đối tượng trốn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 17 Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.

1. Trường hợp người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn trước khi thi hành quyết định thì Trưởng Công an cấp huyện (nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ) ra quyết định truy tìm. Trong trường hợp Công an cấp tỉnh đã nhận đối tượng để đưa đi chấp hành quyết định mà đối tượng bỏ trốn trên đường dẫn giải hoặc bỏ trốn trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Công an cấp tỉnh chuyển giao hồ sơ, tài liệu (quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, biên bản đối tượng bỏ trốn và các tài liệu khác có liên quan) cho Công an cấp huyện để ra quyết định truy tìm.

2. Trường hợp trại viên cơ sở giáo dục bỏ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định truy tìm. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.

3. Tùy từng trường hợp cụ thể mà quyết định truy tìm sẽ được gửi cho cơ quan Công an và Ủy ban nhân dân địa phương nơi cần thiết để phục vụ cho việc truy tìm và bắt giữ đối tượng.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà bỏ trốn trước khi được đưa vào cơ sở thì Trưởng Công an cấp huyện nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ ra quyết định truy tìm.

2. Trường hợp trại viên cơ sở giáo dục bỏ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định truy tìm. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.

3. Cơ quan đã ra quyết định truy tìm có trách nhiệm tổ chức truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn. Khi tiến hành bắt giữ, nếu đối tượng có hành vi chống đối thì được áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định tại Điều 15 Nghị định này để buộc người đó phải chấp hành.

Uỷ ban nhân dân và Công an các cấp có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ các cơ quan nói trên trong việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.

Khi phát hiện đối tượng có quyết định truy tìm, mọi người đều có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan Công an, Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất hoặc bắt và dẫn giải ngay đối tượng đến các cơ quan nói trên.

4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IX Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục X Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
X- HOÃN HOẶC MIỄN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC:

1- Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục có thể được hoãn chấp hành quyết định, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây :

a- Đang ốm nặng có chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên.

b- Đang mang thai, có chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có đơn đề nghị và được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

c- Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt, có đơn đề nghị và được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

2- Thời hạn được hoãn : đối với các trường hợp ốm nặng, mắc bệnh tâm thần hoặc hoàn cảnh gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt thì có thể cho họ được hoãn chấp hành quyết định đến khi khỏi bệnh hoặc hoàn cảnh gia đình đã hết khó khăn đặc biệt; trường hợp phụ nữ có thai hoặc đang phải nuôi con nhỏ thì được hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Khi hết thời hạn được hoãn hoặc khi điều kiện được hoãn không còn thì người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải tự giác đến cơ quan Công an để được đưa đi chấp hành quyết định, nếu không tự giác, sẽ bị cưỡng chế thi hành.

Công an các cấp có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát người được hoãn chấp hành quyết định, khi điều kiện được hoãn không còn thì phải kịp thời đưa họ vào cơ sở giáo dục để chấp hành quyết định. Phòng Cảnh sát hình sự có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Công an cấp huyện trong việc tổ chức đưa người phải chấp hành quyết định đến cơ sở giáo dục.

3- Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục có thể được miễn chấp hành quyết định, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây :

a- Đang mắc bệnh hiểm nghèo (có chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên), đang mắc bệnh tâm thần có kết luận của cơ quan giám định có thẩm quyền và những người đó không còn nguy hiểm cho xã hội.

b- Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công trong thời gian được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, cụ thể như sau :

- “Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật” quy định trong Thông tư này phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như : thành thật hối lỗi, tích cực lao động, học tập, tích cực tham gia các phong trào chung của địa phương, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và được Chủ tịch UBND từ cấp xã trở lên xác nhận, đề nghị.

- Các trường hợp “lập công” quy định trong Thông tư này phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như : tố cáo những hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, dũng cảm cứu người, cứu tài sản có giá trị lớn của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác, có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được nhận giấy khen của Chủ tịch UBND từ cấp huyện trở lên, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị lớn trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận.

Trường hợp đối tượng đang được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được xét miễn chấp hành quyết định khi thời gian đã được hoãn ít nhất phải bằng một nửa thời hạn ghi trong quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, riêng trường hợp lập công thì có thể được xét miễn sớm hơn.

4- Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định cho người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến cơ sở giáo dục chấp hành quyết định trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục và ý kiến của UBND cấp xã, nơi họ cư trú; trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giao cho Công an cùng cấp thẩm tra, xác minh từng trường hợp cụ thể về việc xin hoãn hoặc miễn trước khi ra quyết định.

Xem nội dung VB
Điều 18. Hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng có chứng nhận của Trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên;

b) Đang mang thai có chứng nhận của Trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có đơn đề nghị và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận;

c) Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt, có đơn đề nghị và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Khi hết thời hạn được hoãn hoặc khi điều kiện hoãn không còn thì quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tiếp tục thi hành ngay.

2. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang mắc bệnh hiểm nghèo, có chứng nhận của bệnh viện hoặc Trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội;

b) Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công trong thời gian được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục. Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Giám đốc Công an cùng cấp thẩm tra, xác minh các trường hợp cụ thể quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trước khi ra quyết định.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IX Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
IX. HOÃN, MIỄN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH; ĐÌNH CHỈ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục có thể được hoãn chấp hành quyết định, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng, có chứng nhận của trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên;

b) Đang mang thai, có chứng nhận của trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có đơn đề nghị và giấy khai sinh của con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

c) Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt, có đơn đề nghị và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

2. Thời hạn được hoãn thực hiện như sau: Đối với trường hợp ốm nặng hoặc hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn đặc biệt thì có thể cho họ được hoãn chấp hành quyết định đến khi khỏi bệnh hoặc hoàn cảnh gia đình hết khó khăn đặc biệt; trường hợp phụ nữ đang nuôi con nhỏ thì được hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Khi hết thời hạn được hoãn hoặc khi điều kiện được hoãn không còn thì người bị áp dụng biện pháp vào cơ sở giáo dục phải tự giác đến cơ quan Công an để được đưa đi chấp hành quyết định; nếu không tự giác, sẽ bị cưỡng chế thi hành.

Công an các cấp có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát người được hoãn chấp hành quyết định; khi điều kiện được hoãn không còn thì phải kịp thời báo cáo cơ quan có trách nhiệm để đưa họ đi chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Công an cấp huyện tổ chức đưa đối tượng nêu trên đến cơ sở giáo dục.

3. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng chưa chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục có thể được miễn chấp hành quyết định, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đang mắc bệnh hiểm nghèo (có chứng nhận của trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên) hoặc đang mắc bệnh tâm thần, (có kết luận của cơ quan giám định có thẩm quyền);

b) Trong thời gian được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công.

Các trường hợp sau đây được coi là “Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật” hoặc “lập công”:

- “Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật” phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như: Thành thật hối lỗi, tích cực lao động, học tập, tham gia các phong trào chung của địa phương, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, được nhận giấy khen của Ủy ban nhân dân từ cấp xã trở lên và có xác nhận của Ủy ban nhân dân từ cấp xã.

- “Lập công” phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như: Tố cáo những hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; dũng cảm cứu người, cứu tài sản có giá trị lớn của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác; có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị lớn trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận; có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được nhận giấy khen của cơ quan Công an hoặc Ủy ban nhân dân từ cấp huyện trở lên.

Đối tượng đang được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được xét miễn chấp hành quyết định khi thời gian đã được hoãn ít nhất bằng một nửa thời hạn ghi trong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục; trường hợp lập công thì có thể được xét miễn sớm hơn.

4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định cho người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến cơ sở giáo dục chấp hành quyết định trên cơ sở đơn đề nghị của người đó và ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi họ cư trú; trường hợp cần thiết, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Công an cùng cấp thẩm tra, xác minh từng trường hợp cụ thể trước khi ra quyết định.

5. Trường hợp người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bị chết trước khi thi hành thì Giám đốc Công an cấp tỉnh báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết định đình chỉ thi hành quyết định đó.

Xem nội dung VB
Điều 18. Hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục

1. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng có chứng nhận của Trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên;

b) Đang mang thai có chứng nhận của Trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có đơn đề nghị và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận;

c) Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt, có đơn đề nghị và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Khi hết thời hạn được hoãn hoặc khi điều kiện hoãn không còn thì quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tiếp tục thi hành ngay.

2. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang mắc bệnh hiểm nghèo, có chứng nhận của bệnh viện hoặc Trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội;

b) Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công trong thời gian được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục. Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Giám đốc Công an cùng cấp thẩm tra, xác minh các trường hợp cụ thể quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trước khi ra quyết định.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục X Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục IX Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI và XII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XI- TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC, MIỄN CHẤP HÀNH PHẦN THỜI GIAN CÒN LẠI CHO TRẠI VIÊN CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Trường hợp trại viên bị ốm nặng và có đơn xin bảo lãnh của gia đình thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định để cho về gia đình điều trị, trong trường hợp này, Giám đốc cơ sở giáo dục phải lập hồ sơ đề nghị, trong đó phải có bệnh án hoặc bản sao bệnh án của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên, gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định.

Thời gian điều trị được tính vào thời hạn chấp hành quyết định, nếu sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ ba tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

2- Trại viên là phụ nữ có thai thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị, trong đó phải có giấy chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên, gửi về Cục Quản lý Trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định, nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên đó.

3- Trại viên bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Giám đốc cơ sở giáo dục thành lập Hội đồng xét duyệt (thành phần như Hội đồng xét giảm thời hạn) và lập hồ sơ đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên, trong hồ sơ phải có bệnh án hoặc bản sao bệnh án của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên (có xác nhận rõ người đó đang mắc bệnh hiểm nghèo) gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định.

4- Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của cơ sở giáo dục, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải xem xét, quyết định việc tạm đình chỉ chấp hành quyết định hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho các trường hợp nêu tại các điểm 1, 2, 3 mục này.

Quyết định tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên phải được gửi cho cơ sở giáo dục, người phải chấp hành và gửi UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, UBND cấp xã nơi họ về cư trú để theo dõi, quản lý.

5- Chậm nhất, trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ký quyết định hoặc 03 ngày kể từ ngày về đến địa phương, người được tạm đình chỉ chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại, phải đến trình diện tại UBND cấp xã nơi về cư trú, trường hợp ốn nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà không thể tự đến trình diện được thì thân nhân của người đó phải đến báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã.

6- Trường hợp trại viên được tạm đình chỉ chấp hành quyết định nêu tại điểm 1, điểm 2, mục này mà bị chết thì gia đình phải báo ngay cho UBND cấp xã và cơ sở giáo dục biết (kèm theo bản sao giấy khai tử có xác nhận của UBND cấp xã). Giám đốc cơ sở giáo dục làm báo cáo gửi Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng và thông báo cho UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục để biết.

XII- GIẢM THỜI HẠN, MIỄN CHẤP HÀNH PHẦN THỜI GIAN CÒN LẠI CHO TRẠI VIÊN CÓ TIẾN BỘ RÕ RỆT HOẶC LẬP CÔNG :

1- Trại viên đã chấp hành được một nửa thời hạn ghi trong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm một phần hoặc miễn chếp hành phần thời gian còn lại.

2- Cơ sở giáo dục thành lập Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên, thành phần Hội đồng bao gồm :

- Giám đốc cơ sở giáo dục - Chủ tịch Hội đồng.

- Phó Giám đốc phụ trách công tác giáo dục - Phó Chủ tịch Hội đồng.

- Đội trưởng Đội quản lý, giáo dục - Ủy viên thư ký.

- Cán bộ hồ sơ và cán bộ quản lý, giáo dục trại viên - Ủy viên.

- Chỉ huy trưởng lực lượng Cảnh sát bảo vệ tại cơ sở giáo dục - Ủy viên.

- Bệnh xá trưởng hoặc Bác sĩ trực tiếp điều trị - Ủy viên (nếu đối tượng đề nghị xét miễn chấp hành phần thời gian còn lại là người đang mắc bệnh hiểm nghèo).

Đối với cơ sở giáo dục có nhiều phân khu thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định thành lập tại mỗi phân khu một Tiểu ban xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục do Phó Giám đốc - phụ trách phân khu làm Trưởng tiểu ban. Thành phần Tiểu ban bao gồm : Trưởng phân khu, Đội trưởng quản lý, giáo dục (làm thư ký), cán bộ trinh sát, giáo dục của phân khu và quản giáo trực tiếp phụ trách đội trại viên. Tiểu ban có trách nhiệm xem xét đề nghị của các đội trực tiếp quản lý trại viên về việc giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục và làm văn bản báo cáo Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên của cơ sở giáo dục.

3- Căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện và kết quả học tập, rèn luyện của trại viên, 4 tháng một lần (trừ trường hợp có yêu cầu xét giảm, miễn đột xuất), Hội đồng xét giảm hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức họp để xem xét từng trường hợp cụ thể. Khi Hội đồng họp, cán bộ quản lý giáo dục phải trình bày cụ thể và đề xuất mức giảm hoặc miễn chấp hành cho từng đối tượng thuộc đội mình phụ trách. Sau đó, Hội đồng xem xét, quyết định và làm hồ sơ đề nghị gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định. Hồ sơ đề nghị miễn, giảm thời gian chấp hành tại cơ sở giáo dục cho trại viên gồm biên bản họp Hội đồng, báo cáo đề nghị của cơ sở giáo dục, danh sách trại viên được đề nghị xét miễn, giảm và các tài liệu khác có liên quan.

4- Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của cơ sở giáo dục, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải thành lập Hội đồng xét duyệt do Cục trưởng hoặc Phó Cục trưởng được ủy quyền làm Chủ tịch Hội đồng với thành phần bao gồm Trưởng phòng theo dõi công tác cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên thường trực, Phó Trưởng phòng theo dõi công tác cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên thư ký, đại diện lãnh đạo phòng trinh sát và cán bộ trực tiếp theo dõi công tác xét miễn, giảm của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên. Đại diện lãnh đạo cơ sở giáo dục được mời tham dự cuộc họp để trực tiếp báo cáo từng trường hợp trước Hội đồng. Khi xem xét những đối tượng có hành vi vi phạm quy định tại điểm g, điểm h, khoản 2, mục I Thông tư này thì Chủ tịch Hội đồng xét miễn, giảm phải mời đại diện các cơ quan chức năng của Bộ Công an cùng tham dự.

Hội đồng căn cứ vào hồ sơ đề nghị của cơ sở giáo dục và đối chiếu với các điều kiện, tiêu chuẩn quy định để xét duyệt, đề nghị mức giảm hoặc đề nghị miễn cho từng trường hợp.

Trong thời hạn 05 ngày sau khi họp Hội đồng, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải xem xét, quyết định việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên.

Quyết định giảm thời hạn chấp hành được gửi cho cơ sở giáo dục để lưu hồ sơ và thông báo cho trại viên biết. Quyết định miễn chấp hành phần thời gian còn lại được gửi cho cơ sở giáo dục và người được miễn, UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, UBND cấp xã nơi họ về cư trú. Người được miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục có trách nhiệm trình diện UBND cấp xã theo quy định tại điểm 5, mục XI Thông tư này.

5- Trường hợp trại viên đã được đề nghị giảm thời hạn hoặc đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại, nhưng trong thời gian chờ cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định mà có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức họp Hội đồng, lập hồ sơ, báo cáo ngay với Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, đề nghị đưa trại viên đó ra khỏi danh sách xét miễn, giảm; trường hợp đã có quyết định miễn, giảm, nhưng chưa thi hành thì đề nghị hủy quyết định.

Xem nội dung VB
Điều 25. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục

1. Trại viên đã chấp hành được một nửa thời hạn nêu trong quyết định, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm thời hạn chấp hành từ 01 tháng đến 06 tháng hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

Trong thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, mỗi người chỉ được giảm 1 lần; trường hợp trại viên đã được giảm thời hạn nhưng sau đó lại lập công thì có thể được xét giảm lần thứ 2.

2. Trong trường hợp trại viên bị ốm nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; thời gian tạm đình chỉ được tính vào thời hạn chấp hành quyết định; nếu sau khi sức khoẻ được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ 03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành tại cơ sở giáo dục.

Trại viên là phụ nữ có thai thì được tạm đình chỉ thi hành quyết định cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Trại viên bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

3. Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng quyết định việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở giáo dục. Quyết định này phải được gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.

4. Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ và miễn chấp hành quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục X Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
X. TẠM ĐÌNH CHỈ, GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC; MIỄN CHẤP HÀNH PHẦN THỜI GIAN CÒN LẠI CHO TRẠI VIÊN CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Trường hợp trại viên bị ốm nặng và có đơn xin bảo lãnh của gia đình thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định để cho về gia đình điều trị. Trong trường hợp này, Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị, trong đó có bệnh án hoặc bản sao bệnh án của trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên, gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định.
...
2. Trại viên là phụ nữ có thai (có giấy chứng nhận của bệnh viện, trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên) hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi (có giấy khai sinh của con nhỏ dưới 36 tháng tuổi) được tạm đình chỉ chấp hành quyết định. Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định. Nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công theo quy định tại Thông tư này thì Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên đó.

3. Trại viên bị mắc bệnh hiểm nghèo, được miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Giám đốc cơ sở giáo dục thành lập Hội đồng xét duyệt (thành phần như Hội đồng xét giảm thời hạn quy định tại khoản 8 mục này) và lập hồ sơ đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên, trong hồ sơ có bệnh án hoặc bản sao bệnh án của trung tâm y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên (có xác nhận rõ người đó đang mắc bệnh hiểm nghèo) gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định.

4. Trong thời hạn 7 (bảy) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của cơ sở giáo dục, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng xem xét, quyết định việc tạm đình chỉ chấp hành quyết định hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho các trường hợp nêu tại các khoản 1, 2 và 3 mục này.
...
5. Trong thời hạn 5 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày ký quyết định hoặc 3 (ba) ngày kể từ ngày về đến địa phương, người được tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại, phải đến trình diện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi về cư trú; trường hợp ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà không thể tự đến trình diện được thì thân nhân của người đó phải đến báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

6. Trường hợp trại viên được tạm đình chỉ chấp hành quyết định nêu tại khoản 1, khoản 2 mục này bị chết thì gia đình phải báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ sở giáo dục biết (kèm theo bản sao giấy khai tử có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã). Giám đốc cơ sở giáo dục làm báo cáo gửi Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng và thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục để biết.

7. Trại viên đã chấp hành được một nửa thời hạn ghi trong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm một phần hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

8. Cơ sở giáo dục thành lập Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên; thành phần Hội đồng bao gồm:
...
9. Căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện và kết quả học tập, rèn luyện của trại viên, 4 (bốn) tháng một lần (trừ trường hợp có yêu cầu xét giảm, miễn đột xuất), Hội đồng xét giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức họp để xem xét từng trường hợp cụ thể. Khi Hội đồng họp, Đội trưởng Đội giáo dục, hồ sơ, quản giáo phải trình bày cụ thể và đề xuất mức giảm hoặc miễn chấp hành cho từng đối tượng. Sau đó, Hội đồng xem xét, quyết định và làm hồ sơ đề nghị gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định. Hồ sơ đề nghị miễn, giảm thời gian chấp hành tại cơ sở giáo dục cho trại viên gồm biên bản họp Hội đồng, báo cáo đề nghị của cơ sở giáo dục, danh sách trại viên được đề nghị xét miễn, giảm và các tài liệu khác có liên quan.

10. Trong thời hạn 7 (bảy) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ của cơ sở giáo dục, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải thành lập Hội đồng xét duyệt do Cục trưởng hoặc Phó cục trưởng được ủy quyền làm Chủ tịch Hội đồng, thành phần bao gồm Trưởng Phòng theo dõi công tác ở cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên thường trực, Phó Trưởng Phòng theo dõi công tác ở cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên thư ký; đại diện lãnh đạo Phòng Trinh sát và cán bộ trực tiếp theo dõi công tác cơ sở giáo dục làm Ủy viên. Đại diện lãnh đạo Cơ sở giáo dục và Đội trưởng Đội giáo dục, hồ sơ, quản giáo của cơ sở giáo dục được mời tham dự cuộc họp để trực tiếp báo cáo từng trường hợp trước Hội đồng
...
11. Trường hợp trại viên đã được đề nghị giảm thời hạn hoặc đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại, nhưng trong thời gian chờ cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định mà có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức họp Hội đồng, lập hồ sơ báo cáo ngay với Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để đề nghị đưa trại viên đó ra khỏi danh sách xét miễn, giảm; trường hợp đã có quyết định miễn, giảm, nhưng chưa thi hành thì đề nghị hủy quyết định.

Xem nội dung VB
Điều 25. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục

1. Trại viên đã chấp hành được một nửa thời hạn nêu trong quyết định, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm thời hạn chấp hành từ 01 tháng đến 06 tháng hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

Trong thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục, mỗi người chỉ được giảm 1 lần; trường hợp trại viên đã được giảm thời hạn nhưng sau đó lại lập công thì có thể được xét giảm lần thứ 2.

2. Trong trường hợp trại viên bị ốm nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; thời gian tạm đình chỉ được tính vào thời hạn chấp hành quyết định; nếu sau khi sức khoẻ được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ 03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành tại cơ sở giáo dục.

Trại viên là phụ nữ có thai thì được tạm đình chỉ thi hành quyết định cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Trại viên bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

3. Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng quyết định việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở giáo dục. Quyết định này phải được gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.

4. Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ và miễn chấp hành quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI và XII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục X Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XIII- TRÍCH XUẤT TRẠI VIÊN :

1- Việc trích xuất trại viên chỉ được thực hiện khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền theo quy định tại điều 23 Nghị định số 76; văn bản yêu cầu trích xuất phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, số giấy chứng minh nhân dân, quê quán của đối tượng cần trích xuất và lý do, thời hạn yêu cầu trích xuất trại viên. Nếu là yêu cầu của Viện Kiểm sát hoặc Tòa án thì phải có thêm công văn đề nghị của cơ quan Công an cùng cấp. Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất và bàn giao trại viên có quyết định trích xuất cho Cán bộ Công an được giao trách nhiệm đến nhận trại viên. Cán bộ Công an đến nhận bàn giao đối tượng trích xuất phải có giấy chứng nhận Cảnh sát Nhân dân hoặc giấy chứng minh An ninh Nhân dân và giấy giới thiệu của cơ quan Công an từ cấp huyện trở lên.

Việc giao, nhận trại viên phải được lập biên bản theo mẫu thống nhất; biên bản giao, nhận trại viên phải lập thành 02 bản, mỗi bên giữ một bản. Sau khi bàn giao đối tượng trích xuất, cơ sở giáo dục phải sao gửi văn bản đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và quyết định trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.

Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2- Hết thời hạn trích xuất, cơ quan đã yêu cầu trích xuất có trách nhiệm đưa trả trại viên về cơ sở giáo dục. Trường hợp có yêu cầu gia hạn trích xuất trại viên thì Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có văn bản đề nghị Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định gia hạn trích xuất trại viên. Cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản về việc gia hạn trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.

Xem nội dung VB
Điều 23. Trích xuất trại viên

1. Trích xuất trại viên là việc tạm thời đưa trại viên ra khỏi cơ sở giáo dục theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền để họ tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó. Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Khi có yêu cầu trích xuất, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có công văn gửi Giám đốc cơ sở giáo dục, trong đó phải ghi rõ họ, tên người cần trích xuất, lý do và thời hạn trích xuất. Căn cứ vào công văn yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất trại viên. Quyết định trích xuất trại viên phải ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người được trích xuất; cơ quan yêu cầu trích xuất, mục đích và thời hạn trích xuất, cấp bậc, chức vụ của người ký trích xuất.

3. Cơ quan có yêu cầu trích xuất chịu trách nhiệm đưa người có quyết định trích xuất đi và trả lại cho cơ sở giáo dục theo đúng thời hạn đã ghi trong quyết định trích xuất. Khi giao nhận người theo quyết định trích xuất phải lập biên bản theo đúng quy định.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XI. TRÍCH XUẤT TRẠI VIÊN

1. Việc trích xuất trại viên chỉ được thực hiện khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 76. Văn bản yêu cầu trích xuất trại viên phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh của đối tượng cần trích xuất và lý do, thời hạn yêu cầu trích xuất; số quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, ngày, tháng, năm, người ra quyết định. Nếu là yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Tòa án thì phải có thêm công văn đề nghị của cơ quan Công an cùng cấp. Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất và bàn giao trại viên có quyết định trích xuất cho cán bộ Công an được giao trách nhiệm đến nhận trại viên. Cán bộ Công an đến nhận bàn giao đối tượng trích xuất phải có Giấy chứng minh Công an nhân dân và giấy giới thiệu của cơ quan Công an từ cấp huyện trở lên.

Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Hết thời hạn trích xuất, cơ quan đã yêu cầu trích xuất có trách nhiệm đưa trả trại viên về cơ sở giáo dục. Trường hợp có yêu cầu gia hạn trích xuất trại viên thì Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có văn bản đề nghị Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định gia hạn trích xuất trại viên. Cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản về việc gia hạn trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.

Xem nội dung VB
Điều 23. Trích xuất trại viên

1. Trích xuất trại viên là việc tạm thời đưa trại viên ra khỏi cơ sở giáo dục theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền để họ tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó. Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Khi có yêu cầu trích xuất, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có công văn gửi Giám đốc cơ sở giáo dục, trong đó phải ghi rõ họ, tên người cần trích xuất, lý do và thời hạn trích xuất. Căn cứ vào công văn yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất trại viên. Quyết định trích xuất trại viên phải ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người được trích xuất; cơ quan yêu cầu trích xuất, mục đích và thời hạn trích xuất, cấp bậc, chức vụ của người ký trích xuất.

3. Cơ quan có yêu cầu trích xuất chịu trách nhiệm đưa người có quyết định trích xuất đi và trả lại cho cơ sở giáo dục theo đúng thời hạn đã ghi trong quyết định trích xuất. Khi giao nhận người theo quyết định trích xuất phải lập biên bản theo đúng quy định.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XIII- TRÍCH XUẤT TRẠI VIÊN :

1- Việc trích xuất trại viên chỉ được thực hiện khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền theo quy định tại điều 23 Nghị định số 76; văn bản yêu cầu trích xuất phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, số giấy chứng minh nhân dân, quê quán của đối tượng cần trích xuất và lý do, thời hạn yêu cầu trích xuất trại viên. Nếu là yêu cầu của Viện Kiểm sát hoặc Tòa án thì phải có thêm công văn đề nghị của cơ quan Công an cùng cấp. Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất và bàn giao trại viên có quyết định trích xuất cho Cán bộ Công an được giao trách nhiệm đến nhận trại viên. Cán bộ Công an đến nhận bàn giao đối tượng trích xuất phải có giấy chứng nhận Cảnh sát Nhân dân hoặc giấy chứng minh An ninh Nhân dân và giấy giới thiệu của cơ quan Công an từ cấp huyện trở lên.

Việc giao, nhận trại viên phải được lập biên bản theo mẫu thống nhất; biên bản giao, nhận trại viên phải lập thành 02 bản, mỗi bên giữ một bản. Sau khi bàn giao đối tượng trích xuất, cơ sở giáo dục phải sao gửi văn bản đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và quyết định trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.

Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2- Hết thời hạn trích xuất, cơ quan đã yêu cầu trích xuất có trách nhiệm đưa trả trại viên về cơ sở giáo dục. Trường hợp có yêu cầu gia hạn trích xuất trại viên thì Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có văn bản đề nghị Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định gia hạn trích xuất trại viên. Cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản về việc gia hạn trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.

Xem nội dung VB
Điều 23. Trích xuất trại viên

1. Trích xuất trại viên là việc tạm thời đưa trại viên ra khỏi cơ sở giáo dục theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền để họ tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó. Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Khi có yêu cầu trích xuất, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có công văn gửi Giám đốc cơ sở giáo dục, trong đó phải ghi rõ họ, tên người cần trích xuất, lý do và thời hạn trích xuất. Căn cứ vào công văn yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất trại viên. Quyết định trích xuất trại viên phải ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người được trích xuất; cơ quan yêu cầu trích xuất, mục đích và thời hạn trích xuất, cấp bậc, chức vụ của người ký trích xuất.

3. Cơ quan có yêu cầu trích xuất chịu trách nhiệm đưa người có quyết định trích xuất đi và trả lại cho cơ sở giáo dục theo đúng thời hạn đã ghi trong quyết định trích xuất. Khi giao nhận người theo quyết định trích xuất phải lập biên bản theo đúng quy định.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XI. TRÍCH XUẤT TRẠI VIÊN

1. Việc trích xuất trại viên chỉ được thực hiện khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 76. Văn bản yêu cầu trích xuất trại viên phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh của đối tượng cần trích xuất và lý do, thời hạn yêu cầu trích xuất; số quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, ngày, tháng, năm, người ra quyết định. Nếu là yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Tòa án thì phải có thêm công văn đề nghị của cơ quan Công an cùng cấp. Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất và bàn giao trại viên có quyết định trích xuất cho cán bộ Công an được giao trách nhiệm đến nhận trại viên. Cán bộ Công an đến nhận bàn giao đối tượng trích xuất phải có Giấy chứng minh Công an nhân dân và giấy giới thiệu của cơ quan Công an từ cấp huyện trở lên.

Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Hết thời hạn trích xuất, cơ quan đã yêu cầu trích xuất có trách nhiệm đưa trả trại viên về cơ sở giáo dục. Trường hợp có yêu cầu gia hạn trích xuất trại viên thì Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có văn bản đề nghị Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định gia hạn trích xuất trại viên. Cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản về việc gia hạn trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.

Xem nội dung VB
Điều 23. Trích xuất trại viên

1. Trích xuất trại viên là việc tạm thời đưa trại viên ra khỏi cơ sở giáo dục theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền để họ tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó. Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

2. Khi có yêu cầu trích xuất, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có công văn gửi Giám đốc cơ sở giáo dục, trong đó phải ghi rõ họ, tên người cần trích xuất, lý do và thời hạn trích xuất. Căn cứ vào công văn yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất trại viên. Quyết định trích xuất trại viên phải ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người được trích xuất; cơ quan yêu cầu trích xuất, mục đích và thời hạn trích xuất, cấp bậc, chức vụ của người ký trích xuất.

3. Cơ quan có yêu cầu trích xuất chịu trách nhiệm đưa người có quyết định trích xuất đi và trả lại cho cơ sở giáo dục theo đúng thời hạn đã ghi trong quyết định trích xuất. Khi giao nhận người theo quyết định trích xuất phải lập biên bản theo đúng quy định.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XV- QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục phải được thống nhất quản lý, sử dụng theo đúng quy định tại điều 31 Nghị định số 76 và các quy định khác của Pháp luật có liên quan; phải thực hiện đúng chế độ sổ sách, kế toán theo quy định.

2- Kết quả lao động của cơ sở giáo dục sau khi trừ các chi phí hợp lý theo quy định của pháp luật, số còn lại được phân phối sử dụng như sau :

- 30% chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục.

- 25% chi hỗ trợ cho việc khám , chữa bệnh, bồi dưỡng ăn thêm cho trại viên.

- 20% chi cho hoạt động giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề (xây dựng chương trình giáo dục, mua sắm, in ấn tài liệu học tập, giấy bút, phương tiện học tập và tiền thuê giáo viên bên ngoài (nếu có).

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục, chi cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của cơ sở giáo dục.

- 08% chi cho khen thưởng trại viên có thành tích xuất sắc trong rèn luyện, lao động, học tập.

- 05% chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ có thành tích trong việc quản lý, giáo dục trại viên.

- 02% nộp về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để làm quỹ khen thưởng chung cho các cơ sở giáo dục và chi cho các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động của cơ sở giáo dục.

Phần kinh phí thu được do trại viên làm vượt chỉ tiêu, định mức được giao được sử dụng như sau :

- 70% chi bồi dưỡng cho trại viên lao động vượt chỉ tiêu, định mức được giao.

- 20% chi bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ cơ sở giáo dục có thành tích trong việc chỉ đạo, quản lý trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao.

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục.

Riêng việc sử dụng kết quả lao động, sản xuất của cơ sở giáo dục để chi cho việc xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản để xin ý kiến của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng trước khi thực hiện.

3- Định kỳ 6 tháng, 01 năm cơ sở giáo dục phải báo cáo cụ thể về tình hình, kết quả sản xuất, việc quản lý, sử dụng kết quả sản xuất của cơ sở mình về Bộ (qua Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng).

4- Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính có trách nhiệm phối hợp với Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn cơ sở giáo dục thực hiện đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục và định kỳ hàng năm báo cáo Lãnh đạo Bộ.

Xem nội dung VB
Điều 31. Quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục

1. Cơ sở giáo dục quản lý thống nhất kết quả lao động của cơ sở mình để chi phí cho việc khám, chữa bệnh, bù đắp một phần cho chi phí ăn uống, sinh hoạt của trại viên, khen thưởng cho trại viên có thành tích trong lao động và học tập; để bổ sung cho quỹ phúc lợi của cơ sở; đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục; chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ của cơ sở giáo dục có thành tích trong tổ chức quản lý sản xuất.

Trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao, sẽ được sử dụng một phần kết quả vượt chỉ tiêu đó.

2. Bộ Công an quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XV. QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Kết quả lao động của cơ sở giáo dục phải được thống nhất quản lý, sử dụng theo đúng quy định tại Điều 31 Nghị định số 76 và các quy định khác của pháp luật có liên quan; phải thực hiện đúng chế độ sổ sách, kế toán theo quy định.

2. Kết quả lao động của cơ sở giáo dục sau khi trừ các chi phí hợp lý theo quy định của pháp luật, số còn lại được sử dụng như sau:

- 30% chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục.

- 25% chi hỗ trợ cho việc khám, chữa bệnh, bồi dưỡng ăn thêm cho trại viên.

- 20% chi cho hoạt động giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề (xây dựng chương trình giáo dục, mua sắm, in ấn tài liệu học tập, giấy bút, phương tiện học tập và tiền thuê giáo viên bên ngoài (nếu có).

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục, chi cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của cơ sở giáo dục.

- 08% chi cho khen thưởng trại viên có thành tích xuất sắc trong rèn luyện, lao động, học tập.

- 05% chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sỹ có thành tích trong việc quản lý, giáo dục trại viên.

- 02% nộp về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để làm quỹ khen thưởng chung cho các cơ sở giáo dục và chi cho các hoạt động khác có liên quan đến công tác quản lý cơ sở giáo dục.

Phần kinh phí thu được do trại viên làm vượt chỉ tiêu, định mức được giao được sử dụng như sau:

- 70% chi bồi dưỡng cho trại viên lao động vượt chỉ tiêu, định mức được giao.

- 20% chi bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sỹ cơ sở giáo dục có thành tích trong việc chỉ đạo, quản lý trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao.

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục.

Riêng việc sử dụng kết quả lao động, sản xuất của cơ sở giáo dục để chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục (30%), Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản để xin ý kiến của Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng trước khi thực hiện.

3. Định kỳ 6 tháng, 1 năm cơ sở giáo dục phải báo cáo cụ thể về tình hình, kết quả sản xuất, việc quản lý, sử dụng kết quả lao động sản xuất của cơ sở mình về Bộ (qua Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng).

4. Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng có trách nhiệm phối hợp với Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn cơ sở giáo dục thực hiện đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục và định kỳ hàng năm báo cáo lãnh đạo Bộ Công an.

Xem nội dung VB
Điều 31. Quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục

1. Cơ sở giáo dục quản lý thống nhất kết quả lao động của cơ sở mình để chi phí cho việc khám, chữa bệnh, bù đắp một phần cho chi phí ăn uống, sinh hoạt của trại viên, khen thưởng cho trại viên có thành tích trong lao động và học tập; để bổ sung cho quỹ phúc lợi của cơ sở; đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục; chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ của cơ sở giáo dục có thành tích trong tổ chức quản lý sản xuất.

Trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao, sẽ được sử dụng một phần kết quả vượt chỉ tiêu đó.

2. Bộ Công an quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XV- QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục phải được thống nhất quản lý, sử dụng theo đúng quy định tại điều 31 Nghị định số 76 và các quy định khác của Pháp luật có liên quan; phải thực hiện đúng chế độ sổ sách, kế toán theo quy định.

2- Kết quả lao động của cơ sở giáo dục sau khi trừ các chi phí hợp lý theo quy định của pháp luật, số còn lại được phân phối sử dụng như sau :

- 30% chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục.

- 25% chi hỗ trợ cho việc khám , chữa bệnh, bồi dưỡng ăn thêm cho trại viên.

- 20% chi cho hoạt động giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề (xây dựng chương trình giáo dục, mua sắm, in ấn tài liệu học tập, giấy bút, phương tiện học tập và tiền thuê giáo viên bên ngoài (nếu có).

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục, chi cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của cơ sở giáo dục.

- 08% chi cho khen thưởng trại viên có thành tích xuất sắc trong rèn luyện, lao động, học tập.

- 05% chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ có thành tích trong việc quản lý, giáo dục trại viên.

- 02% nộp về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để làm quỹ khen thưởng chung cho các cơ sở giáo dục và chi cho các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động của cơ sở giáo dục.

Phần kinh phí thu được do trại viên làm vượt chỉ tiêu, định mức được giao được sử dụng như sau :

- 70% chi bồi dưỡng cho trại viên lao động vượt chỉ tiêu, định mức được giao.

- 20% chi bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ cơ sở giáo dục có thành tích trong việc chỉ đạo, quản lý trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao.

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục.

Riêng việc sử dụng kết quả lao động, sản xuất của cơ sở giáo dục để chi cho việc xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản để xin ý kiến của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng trước khi thực hiện.

3- Định kỳ 6 tháng, 01 năm cơ sở giáo dục phải báo cáo cụ thể về tình hình, kết quả sản xuất, việc quản lý, sử dụng kết quả sản xuất của cơ sở mình về Bộ (qua Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng).

4- Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính có trách nhiệm phối hợp với Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn cơ sở giáo dục thực hiện đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục và định kỳ hàng năm báo cáo Lãnh đạo Bộ.

Xem nội dung VB
Điều 31. Quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục

1. Cơ sở giáo dục quản lý thống nhất kết quả lao động của cơ sở mình để chi phí cho việc khám, chữa bệnh, bù đắp một phần cho chi phí ăn uống, sinh hoạt của trại viên, khen thưởng cho trại viên có thành tích trong lao động và học tập; để bổ sung cho quỹ phúc lợi của cơ sở; đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục; chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ của cơ sở giáo dục có thành tích trong tổ chức quản lý sản xuất.

Trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao, sẽ được sử dụng một phần kết quả vượt chỉ tiêu đó.

2. Bộ Công an quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XV. QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Kết quả lao động của cơ sở giáo dục phải được thống nhất quản lý, sử dụng theo đúng quy định tại Điều 31 Nghị định số 76 và các quy định khác của pháp luật có liên quan; phải thực hiện đúng chế độ sổ sách, kế toán theo quy định.

2. Kết quả lao động của cơ sở giáo dục sau khi trừ các chi phí hợp lý theo quy định của pháp luật, số còn lại được sử dụng như sau:

- 30% chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục.

- 25% chi hỗ trợ cho việc khám, chữa bệnh, bồi dưỡng ăn thêm cho trại viên.

- 20% chi cho hoạt động giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề (xây dựng chương trình giáo dục, mua sắm, in ấn tài liệu học tập, giấy bút, phương tiện học tập và tiền thuê giáo viên bên ngoài (nếu có).

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục, chi cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của cơ sở giáo dục.

- 08% chi cho khen thưởng trại viên có thành tích xuất sắc trong rèn luyện, lao động, học tập.

- 05% chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sỹ có thành tích trong việc quản lý, giáo dục trại viên.

- 02% nộp về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để làm quỹ khen thưởng chung cho các cơ sở giáo dục và chi cho các hoạt động khác có liên quan đến công tác quản lý cơ sở giáo dục.

Phần kinh phí thu được do trại viên làm vượt chỉ tiêu, định mức được giao được sử dụng như sau:

- 70% chi bồi dưỡng cho trại viên lao động vượt chỉ tiêu, định mức được giao.

- 20% chi bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sỹ cơ sở giáo dục có thành tích trong việc chỉ đạo, quản lý trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao.

- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục.

Riêng việc sử dụng kết quả lao động, sản xuất của cơ sở giáo dục để chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục (30%), Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản để xin ý kiến của Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng trước khi thực hiện.

3. Định kỳ 6 tháng, 1 năm cơ sở giáo dục phải báo cáo cụ thể về tình hình, kết quả sản xuất, việc quản lý, sử dụng kết quả lao động sản xuất của cơ sở mình về Bộ (qua Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng).

4. Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng có trách nhiệm phối hợp với Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn cơ sở giáo dục thực hiện đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục và định kỳ hàng năm báo cáo lãnh đạo Bộ Công an.

Xem nội dung VB
Điều 31. Quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục

1. Cơ sở giáo dục quản lý thống nhất kết quả lao động của cơ sở mình để chi phí cho việc khám, chữa bệnh, bù đắp một phần cho chi phí ăn uống, sinh hoạt của trại viên, khen thưởng cho trại viên có thành tích trong lao động và học tập; để bổ sung cho quỹ phúc lợi của cơ sở; đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục; chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ của cơ sở giáo dục có thành tích trong tổ chức quản lý sản xuất.

Trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao, sẽ được sử dụng một phần kết quả vượt chỉ tiêu đó.

2. Bộ Công an quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XVII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XVII- KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT TRẠI VIÊN :

1- Việc khen thưởng, kỷ luật trại viên phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 34 Nghị định số 76. Quyết định khen thưởng, kỷ luật phải bằng văn bản và lưu vào hồ sơ của trại viên để theo dõi.

2- Việc lập hồ sơ đề nghị xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2, điều 34 Nghị định số 76 chỉ được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và phải chú ý : hành vi vi phạm pháp luật của trại viên phải có tính chất thường xuyên và đã bị áp dụng các hình thức kỷ luật từ 3 lần trở lên, nhưng vẫn không chịu sửa chữa, vẫn tiếp tục có hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại điểm 2, mục I Thông tư này thì mới lập hồ sơ đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với họ; thành phần Hội đồng xét đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được thực hiện như đối với Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên nêu tại điểm 2, mục XII Thông tư này.

Hồ sơ đề nghị bao gồm :

a- Biên bản họp Hội đồng kỷ luật của cơ sở giáo dục về việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.

b- Báo cáo và đề nghị áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.

c- Bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của trại viên.

d- Các biên bản trại viên vi phạm kỷ luật, các quyết định kỷ luật trại viên và tài liệu khác có liên quan đến việc vi phạm pháp luật của trại viên.

3- Giám đốc cơ sở giáo dục phải gửi hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Tổng cục Cảnh sát, Vụ Pháp chế và các đơn vị liên quan xem xét hồ sơ, nếu đủ điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục với người đó thì phải có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng xem xét, quyết định. Quyết định áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này được gửi cơ sở giáo dục nơi lập hồ sơ đề nghị để tổ chức thi hành; gửi UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và UBND cấp xã nơi cư trú của người đó để biết.

Đến ngày trại viên hết thời hạn phải chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục mà chưa có quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải làm thủ tục cho họ ra khỏi cơ sở giáo dục theo quy định.

Xem nội dung VB
Điều 34. Chế độ khen thưởng, kỷ luật

1. Trại viên có thành tích trong rèn luyện, học tập và chấp hành tốt quy định của pháp luật, nội quy cơ sở giáo dục thì được khen thưởng bằng các hình thức: biểu dương, khen, thưởng tiền mặt hoặc hiện vật, tăng số lần và thời gian gặp người thân, được xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

2. Trại viên vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy cơ sở giáo dục, chây lười lao động, học tập; không tự giác sửa chữa lỗi lầm, thường xuyên không hoàn thành định mức lao động được giao thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị kỷ luật bằng các hình thức: cảnh cáo, hạn chế số lần gặp người thân, hạn chế nhận quà, bị cách ly tại buồng kỷ luật từ 07 đến 10 ngày; nếu hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trường hợp vi phạm chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng đã được giáo dục và bị kỷ luật nhiều lần, đến khi hết thời hạn giáo dục tại cơ sở giáo dục mà vẫn không chịu sửa chữa, không tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng xem xét quyết định việc đưa người đó vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung quy định tại Điều 10 Nghị định này.

Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục để biết.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XIV. KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT TRẠI VIÊN

1. Việc khen thưởng, kỷ luật trại viên phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 34 Nghị định số 76. Quyết định khen thưởng, kỷ luật phải bằng văn bản và lưu vào hồ sơ của trại viên.

2. Việc lập hồ sơ đề nghị xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 76 chỉ được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và phải chú ý: Hành vi vi phạm pháp luật của trại viên đó phải có tính chất thường xuyên và đã bị áp dụng các hình thức kỷ luật từ 3 lần trở lên, nhưng vẫn không chịu sửa chữa, vẫn tiếp tục có hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại mục I Thông tư này thì mới lập hồ sơ đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với họ. Thành phần Hội đồng xét đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được thực hiện như đối với Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên quy định tại khoản 8 mục X Thông tư này.

Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với trường hợp nêu trên bao gồm:

a) Biên bản họp Hội đồng kỷ luật của cơ sở giáo dục về việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Báo cáo và đề nghị áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục;

c) Bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của trại viên;

d) Các biên bản trại viên vi phạm kỷ luật, các quyết định kỷ luật trại viên và tài liệu khác có liên quan đến việc vi phạm pháp luật của trại viên.

3. Giám đốc cơ sở giáo dục phải gửi hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét. Trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xem xét hồ sơ, nếu đủ điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó thì phải có văn bản đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng xem xét, ra quyết định. Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này được gửi cho cơ sở giáo dục nơi đã lập hồ sơ đề nghị để tổ chức thi hành và công bố cho người phải chấp hành quyết định biết, đồng thời gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người đó để biết.

Trường hợp đến ngày trại viên hết thời hạn phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục mà chưa có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải làm ngay thủ tục cho họ ra khỏi cơ sở giáo dục theo quy định.

Xem nội dung VB
Điều 34. Chế độ khen thưởng, kỷ luật

1. Trại viên có thành tích trong rèn luyện, học tập và chấp hành tốt quy định của pháp luật, nội quy cơ sở giáo dục thì được khen thưởng bằng các hình thức: biểu dương, khen, thưởng tiền mặt hoặc hiện vật, tăng số lần và thời gian gặp người thân, được xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

2. Trại viên vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy cơ sở giáo dục, chây lười lao động, học tập; không tự giác sửa chữa lỗi lầm, thường xuyên không hoàn thành định mức lao động được giao thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị kỷ luật bằng các hình thức: cảnh cáo, hạn chế số lần gặp người thân, hạn chế nhận quà, bị cách ly tại buồng kỷ luật từ 07 đến 10 ngày; nếu hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trường hợp vi phạm chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng đã được giáo dục và bị kỷ luật nhiều lần, đến khi hết thời hạn giáo dục tại cơ sở giáo dục mà vẫn không chịu sửa chữa, không tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng xem xét quyết định việc đưa người đó vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung quy định tại Điều 10 Nghị định này.

Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục để biết.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XVII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XIV Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XVIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
XVIII- TỔ CHỨC THỰC HIỆN :

1- Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 20 ngày, kể từ ngày ký và thay thế Thông tư số 07/1998/TT-BCA ngày 03/12/1998 của Bộ Công an về hướng dẫn thi hành một số quy định của Quy chế về cơ sở giáo dục ban hành kèm theo Nghị định số 32/CP ngày 14/4/1997 của Chính phủ. Những quy định trước đây của Bộ Công an trái với Thông tư này đều bãi bỏ.

2- Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, Thanh tra Bộ, Vụ Pháp chế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra và hướng dẫn thi hành Thông tư này.

3- Các Tổng cục trưởng, Vụ trưởng, Cục trưởng các Vụ, Cục trực thuộc Bộ trưởng, Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, theo chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm tổ chức thực hiện Thông tư này.

Trong quá trình tổ chức thực hiện nếu có vướng mắc, cần báo cáo kịp thời về Bộ (qua Tổng cục Cảnh sát, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng) để có hướng dẫn kịp thời.

Xem nội dung VB
Điều 36. Trách nhiệm của Bộ Công an

Bộ Công an có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, đảm bảo cho các hoạt động đó theo đúng quy định của pháp luật; ban hành nội quy cơ sở giáo dục, các biểu mẫu để thực hiện thống nhất; phối hợp với các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục XVIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn
...
4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn
...
4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn
...
4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn
...
4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn
...
4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
...
VIII- QUẢN LÝ NGƯỜI ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH ĐỂ TIẾN HÀNH CÁC THỦ TỤC CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :

1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :

a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).

b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.

2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.

3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.

Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 17. Truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn
...
4. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay để nhận đối tượng và đưa họ về cơ sở giáo dục; việc giao nhận đối tượng phải được lập biên bản theo đúng quy định.

Trong thời gian chờ cơ quan đã ra quyết định truy tìm đến nhận đối tượng, nếu cần thiết thì người có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ hành chính theo quy định của pháp luật hoặc chuyển đối tượng lên Công an cấp tỉnh để quản lý họ theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ hành chính.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư 02/2004/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 22/02/2004 (VB hết hiệu lực: 08/06/2009)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
VII. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG KHÔNG CÓ NƠI CƯ TRÚ NHẤT ĐỊNH CÓ BIỂU HIỆN LẨN TRỐN, GÂY KHÓ KHĂN CHO QUÁ TRÌNH LẬP HỒ SƠ ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC TẠI CÔNG AN CẤP TỈNH.

1. Quản lý đối tượng không có nơi cư trú nhất định có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục:

Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 quy định, trong thời gian lập hồ sơ, nếu đối tượng không có nơi cư trú nhất định mà có hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp tỉnh trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 để lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục. Để tránh oan, sai hoặc quản lý không đúng đối tượng, việc đề xuất, xem xét, quyết định quản lý đối tượng nêu trên phải rất thận trọng và chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện dưới đây:

a) Phải là đối tượng không có nơi cư trú nhất định và có đủ điều kiện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

b) Phải có căn cứ chứng tỏ rằng đối tượng có biểu hiện lẩn trốn, gây khó khăn cho quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Việc quản lý đối tượng nêu trên và chế độ, chính sách đối với người bị quản lý phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và hướng dẫn tại các khoản 3, 4, 5 và 6 mục VII Thông tư này.

2. Quản lý người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa vào cơ sở giáo dục:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 76 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 125 và khoản 4 Điều 17 Nghị định số 76, việc quản lý đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng trong các trường hợp:

c) Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục. Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh đối tượng (ảnh màu hoặc đen trắng cỡ 3cm x 4cm) để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục;

b) Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có trách nhiệm đến nhận đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Quyết định quản lý đối tượng nêu tại khoản 1, khoản 2 mục VII Thông tư này do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền) ký, trong đó ghi rõ số, ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị quản lý; lý do, điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn quản lý, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định. Thời hạn quản lý không quá 15 (mười lăm) ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.

4. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng nêu trên cho phù hợp; phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi: Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”; trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại giam thì Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng.

Nghiêm cấm việc đưa đối tượng nêu trên vào quản lý trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc quản lý chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc quản lý tại nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.

5. Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục; kinh phí do ngân sách nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

6. Trường hợp đối tượng chết trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng; kinh phí mai táng do ngân sách nhà nước cấp.

Xem nội dung VB
Điều 15. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khoá tay, áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được hướng dẫn bởi Mục XVI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)
Căn cứ Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 về quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003;
...
Để thực hiện thống nhất các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và nghị định của Chính phủ về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể như sau:
...
XVI. KINH PHÍ BẢO ĐẢM CHO TỔ CHỨC THỰC HIỆN VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

1. Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an, bao gồm:

a) Kinh phí bảo đảm cho việc lập, xét duyệt hồ sơ, tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, truy tìm và bắt giữ đối tượng trốn; cho việc quản lý, ăn, mặc, sinh hoạt, khám chữa bệnh cho đối tượng trong thời gian được quản lý tại Công an cấp tỉnh;

b) Kinh phí cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục; cho ăn uống, mặc, ở, học tập, dạy nghề, văn nghệ, thể thao, phòng bệnh, chữa bệnh và tổ chức cai nghiện ma túy cho trại viên cơ sở giáo dục;

c) Kinh phí cho các khoản chi khác có liên quan đến việc tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

2. Việc lập dự trù kinh phí thường xuyên bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được thực hiện như sau:

a) Công an cấp xã lập dự trù kinh phí gửi Công an cấp huyện; Công an cấp huyện tổng hợp, báo cáo Công an cấp tỉnh. Trên cơ sở đề xuất của Công an cấp huyện và các đơn vị chức năng, Công an cấp tỉnh lập dự trù kinh phí cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục của địa phương mình gửi Vụ Tài chính;

b) Cơ sở giáo dục lập dự trù kinh phí cho việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục; cho ăn uống, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh, tổ chức cai nghiện ma túy cho trại viên và cho các hoạt động khác của cơ sở giáo dục, gửi báo cáo Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng. Trên cơ sở đề xuất của các cơ sở giáo dục, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng lập dự trù kinh phí chung cho các cơ sở giáo dục, gửi Vụ Tài chính;

c) Trên cơ sở dự trù kinh phí của Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, Vụ Tài chính lập dự trù kinh phí chung bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trình lãnh đạo Bộ Công an xem xét, quyết định.

Xem nội dung VB
Điều 37. Trách nhiệm của Bộ Tài chính

Bộ Tài chính có trách nhiệm cấp kinh phí cho việc xây dựng, tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục và các hoạt động khác có liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an đã được duyệt.
Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được hướng dẫn bởi Mục XVI Thông tư 23/2009/TT-BCA(V19) có hiệu lực từ ngày 08/6/2009 (VB hết hiệu lực: 25/11/2014)