Nhà ở xã hội Rice City Long Châu nằm ở đâu, diện tích bao nhiêu?
Mua bán Nhà riêng tại Quận Long Biên
Nội dung chính
Nhà ở xã hội Rice City Long Châu nằm ở đâu, diện tích bao nhiêu?
Ngày 01/10/2025, Sở Xây dựng Hà Nội tiếp tục Công bố công khai Kế hoạch tiếp nhận hồ sơ đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội dự án: Khu nhà ở xã hội Thượng Thanh và đấu nối hạ tầng khu vực, phường Thượng Thanh (nay là phường Bồ Đề, thành phố Hà Nội) (đợt 1).
Theo đó, dự án Nhà ở xã hội Rice City Long Châu được xây dựng tại phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội (nay là phường Bồ Đề, thành phố Hà Nội).
Bên cạnh đó, dự án Nhà ở xã hội Rice City Long Châu tại Hà Nội với tổng diện tích đất là 60.355,3m.2, gồm 03 khối nhà cao 22 tầng CT1, CT2, CT3. (không bao gồm tầng hầm và tum thang).
Nhà ở xã hội Rice City Long Châu nằm ở đâu, diện tích bao nhiêu? (Hình từ Internet)
Tổng số căn nhà ở xã hội Rice City Long Châu tại Hà Nội là bao nhiêu?
Dự án Nhà ở xã hội Rice City Long Châu tại Hà Nội với tổng số căn hộ là 1951 căn nhà ở xã hội, trong đó:
- Số căn nhà ở xã hội để bán: 1765 căn.
- Số căn nhà ở xã hội cho thuê mua: 186 căn.
Bên cạnh đó, số lượng căn hộ nhà ở xã hội Rice City Long Châu tại Hà Nội mở bán, cho thuê mua tại các tòa CT1, CT2, CT3 Đợt 1:
- Số căn hộ nhà ở xã hội để bán: 1765 căn (Diện tích từ 32,31 m2 đến 69.9 m2).
- Số căn hộ nhà ở xã hội để cho thuê mua: 186 căn (Diện tích từ 32,31 m2 đến 77 m2).
Điều kiện về thu nhập khi mua nhà ở xã hội được quy định như thế nào?
Theo Điều 30 Nghị định 100/2024/NĐ-CP quy định điều kiện về thu nhập khi mua nhà ở xã hội sẽ được áp dụng cho từng nhóm đối tượng mua khác nhau, cụ thể:
(1) Đối với các đối tượng quy định tại các khoản 5, 6 và 8 Điều 76 Luật Nhà ở 2023, gồm:
- Người thu nhập thấp tại khu vực đô thị.
- Công nhân, người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong và ngoài khu công nghiệp.
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.
Các đối tượng này cần phải đảm bảo điều kiện về thu nhập như sau:
+ Trường hợp người đứng đơn là người độc thân thì có thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 15 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi đối tượng làm việc xác nhận.
+ Trường hợp người đứng đơn đã kết hôn theo quy định của pháp luật thì người đứng đơn và vợ (chồng) của người đó có tổng thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi đối tượng làm việc xác nhận.
+ Thời gian xác định điều kiện về thu nhập trong 01 năm liền kề, tính từ thời điểm đối tượng quy định tại (1) nộp hồ sơ hợp lệ cho chủ đầu tư để đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội.
(2) Đối với người có thu nhập thấp tại khu đô thị không có Hợp đồng lao động, nếu là người độc thân thì thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 15 triệu đồng, nếu đã kết hôn theo quy định của pháp luật thì người đứng đơn và vợ (chồng) của người đó có tổng thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xác nhận, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc xác nhận điều kiện về thu nhập trong 01 năm liền kề tính từ thời điểm đối tượng quy định tại (2) nộp hồ sơ hợp lệ cho chủ đầu tư để đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội.
(3) Đối với đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 76 Luật Nhà ở 2023 gồm:
- Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn.
- Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu.
- Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị.
Thì phải thuộc trường hợp hộ gia đình nghèo, cận nghèo theo chuẩn nghèo của Chính phủ.
(4) Đối với đối tượng là Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, công nhân công an, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ tại ngũ; người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ ngân sách nhà nước đang công tác thì áp dụng điều kiện thu nhập theo quy định tại Điều 67 Nghị định 100/2024/NĐ-CP.