Từ ngày 01/07/2016, truy tố trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi đánh bạc như thế nào?

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi đánh bạc được quy định như thế nào kể từ ngày 01/07/2016,?

Nội dung chính

    Từ ngày 01/07/2016, truy tố trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi đánh bạc như thế nào?

    Áp dụng Bộ luật hình sự 2015, từ ngày 1/7 nếu nghi can đánh bạc dưới 5 triệu đồng bị truy tố hay xét xử sẽ được tòa tuyên không phạm tội song không được phép yêu cầu bồi thường oan sai.

    Theo điều 321 Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực từ 1/7, người đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trí giá từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 5 triệu đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

    Mức tiền theo quy định mới cao tăng hơn 3 triệu đồng so với quy định đang áp dụng tại Bộ luật Hình sự 1999- người đánh bạc trái phép dưới các hình thức bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Áp dụng quy định mới, với hành vi đánh bạc dưới 5 triệu đồng, ngày 29/3, TAND Tối cao ra Công văn 80/TANDTC-PC hướng dẫn xử lý như sau. Người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật dưới 5 triệu đồng, thuộc một trong các trường hợp: chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc tổ chức đánh bạc; chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc; đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích sẽ bị xử lý theo hai hình thức.

    Từ ngày 9/12/2015 đến hết 30/6/2016, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ Điều 25 Bộ luật Hình sự 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

    Từ 1/7/2016, nếu hành vi vi phạm mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng Bộ luật hình sự 2015 để tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.

    Công văn hướng dẫn yêu cầu tòa án phải ghi rõ trong quyết định, bản án lý do miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án là do chính sách hình sự mới nhân đạo của nhà nước, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Do đó, người được miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hai theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.

    Trường hợp, xét thấy hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cùng với việc đình chỉ vụ án, tòa án phải chuyển quyết định đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ án, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử lý vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền.

     

    13