Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 là ai?
Nội dung chính
Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 là ai?
Câu hỏi: Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 là ai?
A. Đồng chí Võ Thị Thắng
B. Đồng chí Nguyễn Thị Định
C. Đồng chí Trần Thị Lý
D. Đồng chí Nguyễn Thị Bình
Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 là đồng chí Nguyễn Thị Bình. Bà là một trong những nhân vật có vai trò quan trọng trong tiến trình đàm phán và ký kết Hiệp định Paris, một sự kiện mang tính bước ngoặt giúp chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam. Với tư cách là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, bà đã trực tiếp tham gia vào các cuộc thương lượng căng thẳng với các bên liên quan, thể hiện bản lĩnh kiên cường và trí tuệ sắc bén của một nhà ngoại giao xuất sắc.
Trong suốt quá trình đàm phán, Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 đã không ngừng đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân miền Nam Việt Nam. Bà thể hiện lập trường vững vàng trước sức ép của các cường quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Những phát biểu mạnh mẽ và lý lẽ sắc bén của bà trong hội nghị đã gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế, góp phần khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau khi Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973, hiệp định đã chính thức có hiệu lực, mở ra một chương mới trong lịch sử Việt Nam. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, tạo cơ sở cho việc Mỹ rút quân khỏi miền Nam, đồng thời khẳng định sự tồn tại hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hình ảnh bà Nguyễn Thị Bình đặt bút ký hiệp định đã trở thành biểu tượng của ý chí kiên cường, độc lập và lòng yêu nước mãnh liệt của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đấu tranh vì hòa bình và tự do dân tộc.
Sau khi đất nước thống nhất, Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 tiếp tục có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Bà từng giữ các chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Với những cống hiến to lớn của mình, bà không chỉ được người dân trong nước kính trọng mà còn nhận được sự ngưỡng mộ từ cộng đồng quốc tế, trở thành một trong những biểu tượng tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam trong thế kỷ XX.
Người phụ nữ Việt Nam đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định Paris 1973 là ai? (Hình từ Internet)
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức là gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 về Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.