Nét đặc trưng của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố?
Nội dung chính
Nét đặc trưng của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố?
Việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Nét đặc trưng của sự kiện này chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là yếu tố quyết định sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và giúp cách mạng Việt Nam có được đường lối đúng đắn, phù hợp với thực tiễn dân tộc.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ, nhưng phần lớn theo khuynh hướng phong kiến hoặc tư sản, chưa có một hệ tư tưởng cách mạng triệt để. Các cuộc khởi nghĩa như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế hay phong trào Đông Du đều lần lượt thất bại do thiếu một đường lối đúng đắn và một tổ chức lãnh đạo vững mạnh. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác - Lênin du nhập vào Việt Nam, được Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và truyền bá, trở thành kim chỉ nam cho cách mạng nước ta.
Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cũng là một yếu tố quan trọng dẫn đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới sự áp bức bóc lột của thực dân và tư sản, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ năm 1925 đến 1929. Các cuộc bãi công, biểu tình của công nhân ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành, có ý thức chính trị rõ ràng, và có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước là nét đặc trưng nổi bật của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này thể hiện qua quá trình hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Trước năm 1930, các tổ chức này hoạt động riêng lẻ, chưa có sự thống nhất về đường lối. Nhận thấy sự cần thiết phải có một chính đảng duy nhất, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc) vào đầu năm 1930, thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là kết quả của sự kết hợp ba yếu tố quan trọng nói trên.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam, giúp phong trào đấu tranh của nhân dân ta có được một tổ chức lãnh đạo thống nhất, có cương lĩnh cách mạng rõ ràng. Ngay sau khi thành lập, Đảng đã đề ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, khẳng định mục tiêu lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập dân tộc và tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đây là những văn kiện quan trọng xác định đường lối cách mạng đúng đắn, đưa phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam từ tự phát lên tự giác.
Như vậy, nét đặc trưng quan trọng của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự kiện này không chỉ đánh dấu bước ngoặt lớn của lịch sử dân tộc mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Nhờ có Đảng, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thành công các cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến nay, sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là một bài học quan trọng về sự kết hợp giữa lý luận cách mạng tiên tiến với thực tiễn đấu tranh dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước.
(Nội dung về Nét đặc trưng của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố? chỉ mang tính chất tham khảo)
Nét đặc trưng của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố? (Hình từ Internet)
Đảng viên dự bị có được bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng không?
Căn cứ tại Điều 3 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 như sau:
Điều 3.
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Theo đó, đảng viên dự bị có các quyền như trên, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.