Lúc đầu chữ Quốc ngữ ra đời do nhu cầu?

Lúc đầu chữ Quốc ngữ ra đời do nhu cầu? Nguồn gốc chữ Quốc ngữ Việt Nam? Quy định chung về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính như thế nào?

Nội dung chính

    Lúc đầu chữ Quốc ngữ ra đời do nhu cầu? Nguồn gốc chữ Quốc ngữ Việt Nam?

    Chữ Quốc ngữ ban đầu ra đời do nhu cầu truyền bá đạo Thiên Chúa của các giáo sĩ phương Tây khi đến Việt Nam vào thế kỷ XVII. Để thuận tiện cho việc học tiếng Việt và giảng đạo cho người dân, họ đã sáng tạo ra một hệ thống chữ viết mới, sử dụng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt.

    Trước khi chữ Quốc ngữ xuất hiện, người Việt chủ yếu dùng chữ Hán và chữ Nôm để viết, nhưng cả hai hệ thống chữ này đều khó học, phức tạp và ít phù hợp với việc truyền giáo. Vì vậy, các giáo sĩ tìm cách ghi âm tiếng Việt bằng bảng chữ cái Latinh, nhằm giúp họ học tiếng Việt dễ dàng hơn và giúp người Việt tiếp cận nội dung Kinh Thánh nhanh hơn.

    Nguồn gốc chữ Quốc ngữ Việt Nam

    Chữ Quốc ngữ được hình thành từ nỗ lực của các giáo sĩ phương Tây, đặc biệt là những người Bồ Đào Nha, Ý và Pháp, trong đó đáng chú ý nhất là Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (người Pháp), cùng với các giáo sĩ như Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Gaspar do Amaral và António Barbosa.

    Francisco de Pina (đầu thế kỷ XVII) được coi là người đầu tiên có công ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latinh.

    Các giáo sĩ Gaspar do Amaral và António Barbosa tiếp tục hoàn thiện hệ thống này.

    Alexandre de Rhodes là người có đóng góp quan trọng trong việc biên soạn và xuất bản cuốn "Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum" (Từ điển Việt - Bồ - Latinh) vào năm 1651 tại Rome. Đây là cột mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành chữ Quốc ngữ.

    Lúc đầu, chữ Quốc ngữ chỉ được sử dụng trong các hoạt động tôn giáo và trong phạm vi nhỏ hẹp. Đến thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), chính quyền thực dân khuyến khích sử dụng chữ Quốc ngữ để phục vụ bộ máy cai trị, thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, sau đó, giới trí thức Việt Nam đã tiếp nhận, cải tiến chữ Quốc ngữ và biến nó thành công cụ để truyền bá tri thức, nâng cao dân trí, góp phần quan trọng trong phong trào yêu nước và phát triển văn hóa dân tộc.

    Ngày nay, chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, báo chí, văn học và đời sống hàng ngày.

    Lúc đầu chữ Quốc ngữ ra đời do nhu cầu truyền bá đạo Thiên Chúa của các giáo sĩ phương Tây khi đến Việt Nam.

    (Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo)

    Lúc đầu chữ Quốc ngữ ra đời do nhu cầu?

    Lúc đầu chữ Quốc ngữ ra đời do nhu cầu? (Hình từ Internet)

    Quy định chung về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính như thế nào?

    Căn cứ tại Phụ lục I ban hành theo Nghị định 30/2020/NĐ-CP có nêu rõ quy định chung về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính như sau:

    - Khổ giấy: Khổ A4 (210 mm x 297 mm).

    - Kiểu trình bày: Theo chiều dài của khổ A4. Trường hợp nội dung văn bản có các bảng, biểu nhưng không được làm thành các phụ lục riêng thì văn bản có thể được trình bày theo chiều rộng.

    - Định lề trang: Cách mép trên và mép dưới 20 - 25 mm, cách mép trái 30 - 35 mm, cách mép phải 15 - 20 mm.

    - Phông chữ: Phông chữ tiếng Việt Times New Roman, bộ mã ký tự Unicode theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6909:2001, màu đen.

    - Cỡ chữ và kiểu chữ: Theo quy định cụ thể cho từng yếu tố thể thức.

    - Vị trí trình bày các thành phần thể thức: Được thực hiện theo Mục IV Phần I Phụ lục này.

    - Số trang văn bản: Được đánh từ số 1, bằng chữ số Ả Rập, cỡ chữ 13 đến 14, kiểu chữ đứng, được đặt canh giữa theo chiều ngang trong phần lề trên của văn bản, không hiển thị số trang thứ nhất.

    Chuyên viên pháp lý Lê Trần Hương Trà
    saved-content
    unsaved-content
    11