Hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là?

Hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là? Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ liên hệ mật thiết với nhân dân?

Nội dung chính

    Hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là?

    Trong giai đoạn 1930-1940, Đảng Cộng sản Đông Dương hoạt động trong bối cảnh thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong trào cách mạng, đồng thời tình hình thế giới có nhiều biến động với sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít và phong trào cách mạng vô sản quốc tế.

    Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tích cực thực hiện đường lối đối ngoại nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, đặc biệt là duy trì liên lạc với Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản và phong trào vô sản ở các nước để tìm kiếm sự hỗ trợ về tư tưởng, tổ chức và đường lối cách mạng.

    Ngay từ khi thành lập vào năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đặt mình dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược và đường lối cho phong trào cách mạng ở Đông Dương.

    Các báo cáo về tình hình cách mạng Việt Nam thường xuyên được gửi tới Quốc tế Cộng sản để xin chỉ đạo. Thông qua các mối quan hệ này, Đảng có cơ hội tiếp thu những kinh nghiệm từ phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời khẳng định vị trí của mình trong phong trào cách mạng thế giới.

    Bên cạnh việc duy trì liên lạc với Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương còn thiết lập quan hệ với các đảng cộng sản trên thế giới, đặc biệt là Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô và một số tổ chức cách mạng ở Đông Nam Á.

    Sự liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp giúp Đảng tranh thủ sự ủng hộ từ các lực lượng tiến bộ ở Pháp, đặc biệt trong giai đoạn Mặt trận Dân chủ (1936-1939), khi phong trào cánh tả lên nắm quyền tại Pháp. Điều này giúp phong trào cách mạng Đông Dương có điều kiện hoạt động thuận lợi hơn, giành được một số quyền lợi về dân sinh, dân chủ.

    Ngoài ra, Đảng còn duy trì quan hệ với phong trào vô sản và các tổ chức cách mạng ở khu vực châu Á. Đặc biệt, trong những năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và một số cán bộ cách mạng đã hoạt động tại Trung Quốc, thiết lập quan hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc và các phong trào yêu nước của người Việt ở hải ngoại.

    Việc hợp tác này không chỉ giúp Đảng có thêm kinh nghiệm tổ chức cách mạng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo cán bộ và vận động sự ủng hộ quốc tế đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Dương.

    Như vậy, hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là duy trì liên lạc với Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản và phong trào vô sản ở các nước. Những hoạt động này góp phần quan trọng vào việc định hướng chiến lược cách mạng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời tạo tiền đề cho những bước phát triển quan trọng của cách mạng Việt Nam trong những năm tiếp theo.

    (Nội dung về Hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là? chỉ mang tính chất tham khảo)

    Hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là?

    Hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930 1940 là? (Hình từ Internet)

    Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đúng không?

    Theo quy định tại Điều 23 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 như sau:

    Điều 23.
    Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ:
    1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
    2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
    3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
    4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
    5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
    Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.

    Theo đó, tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ được quy định như trên. Một trong những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng là liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

    Chuyên viên pháp lý Trần Thị Mộng Nhi
    saved-content
    unsaved-content
    2963