Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được chính thức đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam vào thời gian nào?
Nội dung chính
Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được chính thức đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam vào thời gian nào?
Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được chính thức đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam vào ngày 25/10/1956.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đất nước bước vào giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trước yêu cầu mới của cách mạng, tổ chức Đoàn cũng cần có sự điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ngày 25/10/1956, tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II, Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được chính thức đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. Việc đổi tên này không chỉ thể hiện sự phát triển của tổ chức Đoàn mà còn phản ánh vai trò, nhiệm vụ mới của thanh niên trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Dưới tên gọi mới, Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam đã phát động nhiều phong trào thi đua sôi nổi, động viên thanh niên tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được chính thức đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam vào thời gian nào? (Hình từ Internet)
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ đúng không?
Căn cứ theo Điều 5 Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 2022 quy định Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ như sau:
(1) Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
(2) Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn là đại hội đại biểu toàn quốc.
- Cơ quan lãnh đạo của Đoàn ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đoàn viên ở cấp ấy.
- Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo là Ban Chấp hành do đại hội Đoàn cùng cấp bầu ra; giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành, cơ quan lãnh đạo là Ban Thường vụ do Ban Chấp hành cùng cấp bầu ra.
- Số lượng Ủy viên Ban Chấp hành cấp nào do Đại hội cấp đó quyết định theo Hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn.
- Số lượng Ủy viên Ban Thường vụ không quá một phần ba số lượng Ủy viên Ban Chấp hành.
- Ở cấp Trung ương, số lượng Bí thư Trung ương Đoàn không quá một phần ba số lượng Ủy viên Ban Thường vụ.
(3) Nghị quyết của Đoàn phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức.
(4) Trước khi quyết định các công việc và biểu quyết nghị quyết của Đoàn, các thành viên đều được cung cấp thông tin và phát biểu ý kiến của mình, ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên Đoàn cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết hiện hành.
(5) Đại hội, hội nghị của các cơ quan lãnh đạo của Đoàn chỉ có giá trị khi có ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên được triệu tập tham dự.
- Trường hợp thành viên được triệu tập theo cơ chế đại biểu thì phải có ít nhất hai phần ba (2/3) số đại biểu và thay mặt cho ít nhất hai phần ba (2/3) số tổ chức Đoàn trực thuộc tham dự.
- Quyết định của đại hội, hội nghị chỉ có giá trị khi được sự đồng ý của trên một phần hai (1/2) số thành viên có mặt.