Diện tích vi phạm và số năm vi phạm có là căn cứ để xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm cụ thể không?
Nội dung chính
Số lợi bất hợp pháp thu được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính là gì?
Căn cứ tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 123/2024/NĐ-CP quy định số lợi bất hợp pháp thu được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính như sau:
- Số lợi bất hợp pháp là số lợi được tính thành tiền do tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có được từ việc sử dụng đất sau vi phạm và phải nộp vào ngân sách nhà nước.- Trường hợp hành vi vi phạm do nhiều tổ chức, cá nhân cùng thực hiện trên một thửa đất thì số lợi bất hợp pháp phải thu được chia đều cho các tổ chức, cá nhân cùng vi phạm.
Diện tích vi phạm và số năm vi phạm có là căn cứ để xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm cụ thể không? (Hình từ internet)
Diện tích vi phạm và số năm vi phạm là căn cứ để xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm cụ thể hay không?
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 6 Nghị định 123/2024/NĐ-CP thì diện tích vi phạm và số năm vi phạm được quy định là căn cứ để xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm cụ thể như sau:
(1) Hành vi sử dụng đất sai mục đích quy định tại các Điều 8, 9, 10, 11 và 12 Nghị định 123/2024/NĐ-CP
- Diện tích đất và giá đất được xác định tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính; Loại đất trước khi vi phạm được xác định theo quy định tại Điều 10 Luật Đất đai 2024; loại đất sau khi vi phạm được xác định theo hiện trạng tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
- Số năm vi phạm được xác định từ thời điểm sử dụng đất sang mục đích khác đến thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính.
(2) Hành vi lấn đất hoặc chiếm đất quy định tại Điều 13 Nghị định 123/2024/NĐ-CP:
- Diện tích đất và giá đất được xác định tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
Loại đất vi phạm là loại đất sau khi lấn đất hoặc chiếm đất được xác định theo hiện trạng của loại đất đang sử dụng tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
- Số năm vi phạm được xác định từ thời điểm lấn đất hoặc chiếm đất đến thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
Trường hợp diện tích đất vi phạm sau khi lấn hoặc chiếm mà chưa có giá đất trong Bảng giá đất thì lấy giá đất tại thửa đất cùng loại đất sau lấn hoặc chiếm ở vị trí gần nhất với diện tích đất vi phạm để xác định số lợi bất hợp pháp;
Trường hợp lấn đất hoặc chiếm đất chưa sử dụng nhưng chưa sử dụng vào các mục đích có trong Bảng giá đất thì cơ quan, người có thẩm quyền xác định số lợi bất hợp pháp trên cơ sở thực tế vụ việc, chứng cứ, các chứng từ, tài liệu (nếu có).
(3) Hành vi chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất không đủ điều kiện: Số năm vi phạm được tính từ thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đến thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính.
(4) Hành vi cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất không đủ điều kiện: Số năm vi phạm được tính từ thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đến thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính.
(5) Hành vi chuyển quyền sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền thuê trong hợp đồng thuê đất quy định tại Nghị định này mà đã nộp các khoản tiền vào ngân sách nhà nước từ việc giao dịch đó (nếu có).
Thời gian để tính số năm vi phạm đối với trường hợp có lẻ ngày, tháng thì số ngày, tháng lẻ đó được quy đổi một ngày bằng 0,0028 năm.
Như vậy, việc xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm cụ thể phải căn cứ vào diện tích vi phạm và thời gian vi phạm theo quy định trên.
Cách xác định diện tích vi phạm và tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm?
Theo Điều 7 Nghị định 123/2024/NĐ-CP quy định việc xác định diện tích đất vi phạm và tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm như sau:
Xác định diện tích đất vi phạm và tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm
1. Diện tích đất vi phạm trong các trường hợp quy định tại Nghị định này được xác định như sau:
a) Trường hợp vi phạm toàn bộ diện tích thửa đất mà đã có bản đồ địa chính thì xác định theo bản đồ địa chính; trường hợp diện tích vi phạm không có bản đồ địa chính nhưng có bản đồ khác đã, đang sử dụng trong quản lý đất đai tại địa phương thì sử dụng bản đồ đó để xác định.
b) Trường hợp diện tích đất vi phạm ở những nơi chưa có bản đồ quy định tại điểm a khoản này hoặc vi phạm một phần diện tích thửa đất thì người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính có trách nhiệm xác định phạm vi, ranh giới, mốc giới để xác định diện tích đất vi phạm và ghi vào biên bản vi phạm hành chính.
Trường hợp diện tích đất vi phạm không thể đo đạc bằng phương pháp thủ công thì được thuê đơn vị tư vấn có chức năng đo đạc để xác định diện tích đất vi phạm.
Trường hợp người có hành vi vi phạm không đồng ý với kết quả đo đạc do người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính xác định thì được quyền thuê đơn vị có chức năng đo đạc xác định lại diện tích đất vi phạm.
Chi phí thuê đơn vị tư vấn có chức năng đo đạc để xác định diện tích đất vi phạm quy định tại điểm này do người vi phạm chi trả.
2. Tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm được xác định theo người sử dụng đất, loại đất quy định tại Điều 9 Luật Đất đai và theo hiện trạng sử dụng đất trước khi vi phạm (địa hình, địa vật, công trình trên đất) và được ghi nhận tại biên bản vi phạm hành chính.
Việc xác định tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm căn cứ vào các hồ sơ, tài liệu có thể hiện tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Trường hợp không có hồ sơ, tài liệu thì người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính có trách nhiệm xác minh tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm trên cơ sở ý kiến trình bày của người vi phạm và ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Như vậy, diện tích vi phạm và tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm được xác định theo quy định như trên.