Có được ủy quyền giải quyết tranh chấp đất đai không?
Nội dung chính
Có được ủy quyền giải quyết tranh chấp đất đai không?
Căn cứ khoản 47 Điều 3 Luật Đất đai 2024 quy định tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Căn cứ Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015 hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Căn cứ vào các quy định trên, có thể hiểu ủy quyền tranh chấp đất đai là hình thức thỏa thuận bằng hợp đồng giữa bên ủy quyền (người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan đến vụ việc tranh chấp đất đai) và bên được ủy quyền (cá nhân hoặc tổ chức). Theo đó, bên được ủy quyền sẽ thay mặt bên ủy quyền thực hiện các công việc liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai như khiếu nại, khởi kiện, hoặc tham gia quá trình giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền.
Pháp luật không có quy định cấm việc ủy quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Do đó, khi bên ủy quyền không thể tự mình thực hiện các thủ tục pháp lý hoặc cần người có chuyên môn hỗ trợ trong quá trình giải quyết tranh chấp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có thể ủy quyền cho người khác thực hiện thay mình.
Có được ủy quyền giải quyết tranh chấp đất đai không? (Hình từ Internet)
Tranh chấp đất đai có bắt buộc hòa giải không?
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 235 Luật Đất đai 2024, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải, hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, hòa giải theo quy định của pháp luật về hòa giải thương mại hoặc cơ chế hòa giải khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 235 Luật Đất đai 2024 quy định trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định (toà án hoặc UBND cấp có thẩm quyền), các bên tranh chấp phải thực hiện hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp, trừ địa bàn không thành lập đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc UBND cấp huyện.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì tranh chấp đất đai bắt buộc phải hòa giải.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Căn cứ Điều 236 Luật Đất đai 2024 thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai được quy định như sau:
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp hoặc một trong các bên tranh chấp có Giấy chứng nhận có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 Luật Đất đai 2024 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án giải quyết.
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 Luật Đất đai 2024 thì các bên tranh chấp được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
+ Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
+ Khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
- Trường hợp các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
+ Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết.
+ Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
- Không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính hoặc khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai do Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc do Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại.
Như vậy, tùy thuộc vào loại tranh chấp và các bên liên quan, thẩm quyền giải quyết sẽ được xác định rõ ràng để đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật.