Định hướng và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam

Ngày 22/8/2025, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo 439/TB-VPCP, trong đó có nêu về định hướng và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam

Nội dung chính

    Định hướng và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam

    Ngày 22/8/2025, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo 439/TB-VPCP về Kết luận của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Phiên họp thứ hai ngày 04 tháng 8 năm 2025.

    Theo Mục IV Thông báo 439/TB-VPCP thì Việt Nam với định hướng chiến lược là thay đổi trạng thái từ ưu đãi để thu hút đầu tư sang ưu đãi để thu hút chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ cao dựa trên nền tảng ổn định và phát triển xanh, bền vững, phát triển công nghệ cao dựa trên sự phát triển nhanh, bền vững của các công nghệ truyền thống, đồng thời đảm bảo điều kiện đạt được mục tiêu đã đặt ra tại các Chương trình, Chiến lược đã ban hành, đặc biệt là mục tiêu thiết kế, chế tạo, kiểm thử được một số chip bán dẫn cần thiết vào năm 2027, cần bám sát các quan điểm, định hướng phát triển sau:

    (1) Quá trình phát triển ngành công nghiệp bán dẫn phải đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhỏ đến lớn; cần có các giải pháp tăng tốc, bứt phá, tạo ra các đột phá mới với tinh thần “theo kịp, tiến cùng và vượt lên” trong phát triển công nghệ.

    (2 Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, đơn vị có liên quan cần căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chủ động, sáng tạo triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050, Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050.

    (3) Phát triển ngành công nghiệp bán dẫn là nhiệm vụ trọng tâm, cần được tổ chức triển khai đồng bộ, bài bản, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân, với tỉnh thần quyết liệt, đột phá, hiệu quả và bền vững, với phương châm “cả nước là một đoàn quân thống nhất, hành quân thần tốc, táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh, đánh chắc thắng".

    (4) Phát triển hệ sinh thái ngành công nghiệp bán dẫn phải bảo đảm tính bao trùm, toàn diện, đồng bộ, thực chất và hiệu quả.

    (5) Khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, đặc biệt là các chính sách ưu đãi, tháo gỡ các nút thắt về hạ tầng, thể chế, nguồn nhân lực, với tinh thần “thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, con người thông minh”.

    (6) Chính sách ưu đãi cần chuyển trạng thái từ ưu đãi để thu hút đầu tư sang ưu đãi để thu hút chuyển giao công nghệ.

    (7) Đẩy mạnh phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước – Nhà trường – Nhà doanh nghiệp; kết nối chặt chẽ giữa hoạt động kiến tạo – nghiên cứu – phát triển – sản xuất, kinh doanh.

    (8) Thúc đẩy phát triển cân bằng, bình đẳng giữa khu vực công và tư, mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng cơ chế chính sách hợp tác công tư phù hợp với đặc thù ngành bán dẫn.

    (9) Phát triển thị trường bán dẫn cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, tuân thủ đúng quy luật thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.

    Định hướng và mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam

    Định hướng và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam (Hình từ Internet)

    Các hạn chế trong việc phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam

    Căn cứ Mục III Thông báo 439/TB-VPCP năm 2025, các hạn chế trong việc phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam bao gồm:

    (1) Việc huy động nguồn lực, đặc biệt là về vốn đầu tư cho phát triển ngành công nghiệp bán dẫn còn nhiều khó khăn;

    (2) Thể chế, cơ chế, chính sách liên quan đến ngành bán dẫn vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập, chưa thực sự đồng bộ, chưa tạo được môi trường đủ thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triền nhanh;

    (3) Tiến độ triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt;

    (4) Thiếu các yếu tố tạo đột phá mạnh mẽ về công nghệ, sản phẩm, mô hình tổ chức và cách thức huy động nguồn lực;

    (5) Hợp tác, liên kết giữa ba nhà (Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp) còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả;

    (6) Việc chuyền giao công nghệ còn hạn chế, chưa có nhiều kết quả thực chất do các vướng mắc về rào cản kỹ thuật.

    saved-content
    unsaved-content
    1