16:48 - 03/03/2025

Sự khác nhau giữa ngày 8/3 và ngày 20/10 - Ý nghĩa và giá trị của hai ngày đặc biệt dành cho phụ nữ Việt Nam

Dưới đây là bài viết để hiểu về sự khác nhau giữa ngày 8/3 và ngày 20/10 – Ý nghĩa và giá trị của hai ngày đặc biệt dành cho phụ nữ Việt Nam

Nội dung chính

    Sự khác nhau giữa ngày 8/3 và ngày 20/10 – Ý nghĩa và giá trị của hai ngày đặc biệt dành cho phụ nữ Việt Nam

    Trong văn hóa Việt Nam, phụ nữ luôn giữ vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Nhằm tôn vinh những giá trị ấy, mỗi năm chúng ta có hai dịp đặc biệt để gửi lời tri ân đến phái đẹp: ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 và ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10.

    Nhiều người thường nhầm lẫn hai ngày này giống nhau, nhưng trên thực tế, đây là hai ngày lễ khác biệt cả về lịch sử, ý nghĩa và phạm vi tổ chức. Việc hiểu rõ sự khác biệt giữa hai ngày không chỉ giúp chúng ta trân trọng hơn những cống hiến của phụ nữ mà còn thể hiện sự tinh tế trong cách thể hiện tình cảm của mình.

    Trước hết, ngày 8/3 hay còn gọi là ngày Quốc tế Phụ nữ, có nguồn gốc từ phong trào đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ trên toàn thế giới. Vào cuối thế kỷ XIX, tại các nước tư bản phương Tây, phụ nữ phải làm việc trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt, lương thấp và không có quyền lợi cơ bản. Ngày 8/3/1908, tại thành phố New York (Mỹ), hàng nghìn nữ công nhân ngành dệt đã đứng lên biểu tình để đòi quyền lợi về giờ làm, mức lương và quyền bầu cử.

    Từ đó, ngày 8/3 trở thành biểu tượng của tinh thần đấu tranh vì bình đẳng giới. Đến nay, ngày Quốc tế Phụ nữ được tổ chức ở nhiều quốc gia như một dịp để tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với Việt Nam, ngày 8/3 không chỉ nhắc nhớ về tinh thần quốc tế của phong trào phụ nữ, mà còn là dịp để thể hiện sự biết ơn đối với các bà, các mẹ, các chị – những người đã không ngừng hy sinh, cống hiến cho gia đình và đất nước.

    Trong khi đó, ngày 20/10 là ngày lễ riêng của Việt Nam, được gọi là ngày Phụ nữ Việt Nam. Ngày này ra đời vào năm 1930, gắn liền với sự kiện thành lập Hội Phụ nữ Việt Nam (nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam). Đây là tổ chức đầu tiên tập hợp phụ nữ trên toàn quốc để cùng nhau đấu tranh vì quyền lợi chính đáng, vì sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

    Từ đó, ngày 20/10 trở thành ngày ghi dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của phong trào phụ nữ Việt Nam, tôn vinh những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Không chỉ vậy, ngày này còn thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Sự khác nhau giữa ngày 8/3 và ngày 20/10 – Ý nghĩa và giá trị của hai ngày đặc biệt dành cho phụ nữ Việt Nam

    Sự khác nhau giữa ngày 8/3 và ngày 20/10 – Ý nghĩa và giá trị của hai ngày đặc biệt dành cho phụ nữ Việt Nam (Hình từ Internet)

    Tóm lại, nếu như ngày 8/3 mang tính chất toàn cầu, hướng đến phong trào đấu tranh cho quyền phụ nữ trên thế giới, thì ngày 20/10 lại mang đậm dấu ấn dân tộc Việt Nam, ghi nhận những hy sinh thầm lặng và đóng góp lớn lao của phụ nữ Việt qua các thời kỳ lịch sử. Hai ngày này không chỉ khác nhau về nguồn gốc và ý nghĩa mà còn về phạm vi tổ chức.

    Ngày 8/3 được tổ chức rộng rãi trên toàn thế giới, còn ngày 20/10 chỉ diễn ra tại Việt Nam như một ngày lễ truyền thống, thiêng liêng dành riêng cho phụ nữ nước nhà.

    Tuy vậy, dù là ngày 8/3 hay 20/10, thì điểm chung lớn nhất vẫn là tinh thần tôn vinh phụ nữ – những người giữ lửa trong gia đình và góp phần không nhỏ vào sự phát triển của xã hội. Đây đều là dịp để mỗi người trong chúng ta gửi gắm những lời chúc tốt đẹp nhất, những món quà ý nghĩa nhất đến những người phụ nữ quan trọng trong cuộc đời mình.

    Nhưng hơn tất cả, sự trân trọng, yêu thương dành cho phụ nữ không nên chỉ gói gọn trong hai ngày lễ này mà cần được thể hiện bằng hành động thiết thực mỗi ngày, để phụ nữ luôn cảm nhận được giá trị, vị trí và niềm hạnh phúc của mình trong gia đình và cộng đồng.

    Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động là gì?

    Căn cứ tại Điều 13 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định như sau:

    Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
    1. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
    2. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.
    3. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
    a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
    b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
    c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

    Theo đó, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:

    - Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;

    - Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;

    - Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

    saved-content
    unsaved-content
    22