Pháp luật có cấm hành vi yêu sách của cải trong kết hôn không?
Nội dung chính
Yêu sách của cải trong kết hôn được hiểu như thế nào?
Căn cứ khoản 12 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
...
12. Yêu sách của cải trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ.
...
Như vậy, yêu sách của cải trong kết hôn có thể hiểu là hành vi đòi hỏi hoặc yêu cầu các lợi ích về vật chất (tiền, vàng, tài sản khác) một cách quá đáng từ phía gia đình hoặc cá nhân người muốn kết hôn.
Pháp luật có cấm hành vi yêu sách của cải trong kết hôn không? (Ảnh từ Internet)
Pháp luật có cấm hành vi yêu sách của cải trong kết hôn không?
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
...
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
...
Như vậy, hành vi yêu sách của cải trong kết hôn là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm.
Yêu sách của cải trong kết hôn bị phạt hành chính bao nhiêu tiền?
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định:
Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.
...
Như vậy, hành vi yêu sách của cải trong kết hôn phải chịu mức phạt hành chính từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng .
Lưu ý, theo khoản 4 Điều 4 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì mức phạt tiền quy định trên được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình quy định ra sao?
Căn cứ Điều 4 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình
1. Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
2. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân công của Chính phủ. Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, các thành viên của mình và mọi công dân xây dựng gia đình văn hóa; kịp thời hòa giải mâu thuẫn trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên gia đình. Nhà trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ.
Như vậy, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình quy định cụ thể như sau:
(1) Chính sách và biện pháp của Nhà nước
Nhà nước có vai trò quyết định trong việc bảo hộ hôn nhân và gia đình thông qua việc xây dựng và thực hiện các chính sách, biện pháp cụ thể như:
- Khuyến khích hôn nhân tự nguyện và tiến bộ: Nhà nước tạo điều kiện để nam và nữ có quyền tự do lựa chọn đối tác kết hôn dựa trên cơ sở tình yêu và sự tự nguyện, không bị ép buộc hay tác động bởi các yếu tố bên ngoài như yêu cầu về của cải, phong tục lạc hậu.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình: Nhà nước tổ chức các chương trình tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, giúp công dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ trong hôn nhân.
- Xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu: Nhà nước kết hợp với các tổ chức xã hội để vận động nhân dân từ bỏ các tập quán, phong tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân ép buộc, yêu sách của cải, nhằm bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trong hôn nhân.
- Phát huy truyền thống tốt đẹp: Nhà nước tôn vinh và duy trì những phong tục, truyền thống tốt đẹp trong hôn nhân và gia đình, phù hợp với bản sắc văn hóa của các dân tộc, góp phần xây dựng gia đình văn hóa.
(2) Quản lý Nhà nước về hôn nhân và gia đình
Chính phủ có trách nhiệm thống nhất trong quản lý về hôn nhân và gia đình, đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách. Cụ thể:
- Các bộ và cơ quan ngang bộ: Được phân công thực hiện quản lý Nhà nước về lĩnh vực này, đảm bảo các chính sách, quy định được thực thi nghiêm túc và hiệu quả.
- Ủy ban nhân dân các cấp: Tổ chức thực hiện quản lý tại địa phương, phối hợp với các cơ quan chức năng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, xử lý các vụ việc liên quan đến hôn nhân không hợp pháp, như hôn nhân ép buộc hay kết hôn giả.
(3) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và nhà trường
Cơ quan, tổ chức và nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ giáo dục và bảo vệ các thành viên gia đình:
- Giáo dục và vận động xây dựng gia đình văn hóa: Các tổ chức có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục nhân viên và người lao động về vai trò của gia đình văn hóa, tôn trọng quyền bình đẳng trong hôn nhân, và khuyến khích các thành viên xây dựng đời sống gia đình ấm no, hạnh phúc.
- Hòa giải mâu thuẫn gia đình: Khi có tranh chấp hoặc mâu thuẫn trong gia đình, các tổ chức xã hội, cơ quan chức năng và cộng đồng cần hỗ trợ hòa giải kịp thời, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên
- Phối hợp giữa nhà trường và gia đình: Nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc giáo dục, phổ biến kiến thức về hôn nhân và gia đình cho học sinh.