BỘ
LÂM NGHIỆP-BỘ TÀI CHÍNH-UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1/TTLT
|
Hà
Nội , ngày 18 tháng 1 năm 1984
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
TÀI CHÍNH - LÂM NGHIỆP - UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC SỐ 1/TTLT
NGÀY 18-1-1984 HƯỚNG DẪN MỘT SỐ ĐIỂM VỀ VIỆC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG TIỀN NUÔI RỪNG.
Thi hành Nghị quyết số 138-HĐBT
ngày 19-11-1983 của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến chế độ phân cấp quản lý ngân
sách cho địa phương, liên Bộ Tài chính - Lâm nghiệp - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
hướng dẫn một số điểm cụ thể về việc quản lý và sử dụng tiền nuôi rừng như sau:
I. NGUYÊN TẮC
CHUNG
Các tổ chức kinh tế quốc doanh,
cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, kinh tế tập thể và nhân dân được
phép khai thác lâm sản, đặc sản rừng (bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng) đều
phải nộp tiền nuôi rừng. Tiền nuôi rừng là một bộ phận thu chi của ngân sách
Nhà nước, dùng vào việc bảo vệ và phát triển vốn rừng.
Tiền nuôi rừng bao gồm tiền thu
vào các loại lâm sản, đặc sản lấy từ rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng), tiền
thu được do việc xử lý các vụ vi phạm về lâm nghiệp.
Tiền nuôi rừng thuộc tỉnh, thành
phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh) do Uỷ ban nhân dân
tỉnh thống nhất quản lý, sử dụng vào mục đích trồng, chăm sóc, tu bổ, cải tạo,
quản lý, bảo vệ rừng và trợ cấp nhân dân trồng cây theo quy hoạch, kế hoạch và
cơ cấu cây trồng đã được Nhà nước duyệt. Không sử dụng tiền nuôi rừng vào việc
khác.
II. QUẢN LÝ
THU, CHI TIỀN NUÔI RỪNG
A. THU TIỀN NUÔI RỪNG:
1. Kiểm lâm nhân dân là lực lượng
chuyên trách quản lý bảo vệ rừng; kiểm tra việc thực hiện quy trình kỹ thuật
khai thác; kiểm tra sản phẩm đã khai thác của tất cả các đối tượng khai thác
lâm sản, đặc sản rừng.
2. Lực lượng kiểm lâm nhân dân
có nhiệm vụ trực tiếp thu tiền nuôi rừng của các tổ chức kinh tế quốc doanh
(ngoài lâm trường quốc doanh), cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang, kinh tế tập
thể và nhân dân được phép khai thác lâm sản, đặc sản rừng.
3. Các lâm trường quốc doanh địa
phương khai thác lâm sản, đặc sản rừng thuộc tỉnh nào, nộp tiền nuôi rừng cho tỉnh
đó.
Các liên hiệp lâm công nghiệp,
các lâm trường quốc doanh Trung ương, các tổ chức lâm nghiệp địa phương thuộc
vùng nguyên liệu giấy sợi và gỗ trụ mỏ (được ngân sách Trung ương đầu tư vốn) nộp
tiền nuôi rừng vào ngân sách Trung ương. Ngân sách địa phương được hưởng tỷ lệ
điều tiết bằng 10% (mười phần trăm) số thu thực tế tiền nuôi rừng.
4. Các tổ chức kinh tế quốc
doanh (ngoài lâm trường quốc doanh), các cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang,
kinh tế tập thể và nhân dân phải nộp tiền nuôi rừng ngay từ khi nhận giấy phép
và thanh toán theo khối lượng lâm sản thực tế khai thác có sự kiểm tra xác nhận
của cơ quan kiểm lâm nhân dân.
Đối với các tổ chức kinh tế quốc
doanh thuộc ngành y tế, nội thương, ngoại thương được Nhà nước cho phép thu mua
tại rừng các lâm sản, đặc sản rừng, phải nộp tiền nuôi rừng cho cơ quan kiểm
lâm nhân dân tại địa phương có rừng trước khi vận chuyển lâm sản, đặc sản rừng
ra khỏi nơi thu mua.
5. Mỗi loại lâm sản, đặc sản rừng
chỉ nộp tiền nuôi rừng một lần. Khi thu tiền nuôi rừng, cơ quan kiểm lâm nhân
dân phải cấp biên lai cho người nộp theo đúng chế độ quy định.
6. Các loại biên lai thu tiền
nuôi rừng đều do cơ quan tài chính Nhà nước ấn hành và được quản lý theo nguyên
tắc quản lý ấn chỉ thu thuế, quy định tại Thông tư số 15-ST/KT ngày 2-1-1958 của
Sở thuế Trung ương. Các đơn vị nhận biên lai thu tiền nuôi rừng về dùng phải
đăng ký với cơ quan tài chính cùng cấp. Hàng quý, năm các đơn vị này phải tổng
hợp báo cáo quyết toán với cơ quan, cấp phát về số biên lai đã sử dụng và phải
lưu trữ theo chế độ lưu trữ hiện hành.
7. Về thời gian và thủ tục nộp
tiền nuôi rừng vào ngân sách Nhà nước:
a. Đối với tổ chức kiểm lâm nhân
dân cứ mười (10) ngày một lần (ngày 1, ngày 11, ngày 31 trong tháng) phải:
- Lập bảng kê và nộp hết số tiền
nuôi rừng đã thu được trong kỳ vào ngân sách địa phương tại Ngân hàng gần nhất.
- Mỗi tháng một lần vào ngày cuối
tháng các hạt (trạm kiểm lâm nhân dân lập bảng kê tổng hợp số tiền nuôi rừng đã
nộp trong tháng gửi cho Sở tài chính và Sở lâm nghiệp để báo cáo.
b. Đối với các Liên hiệp lâm
công nghiệp, các lâm trường quốc doanh mỗi tháng nộp tiền nuôi rừng hai (2) lần,
lần đầu từ ngày 1 đến ngày 5 nộp từ 40 đến 50% nhiệm vụ kế hoạch tháng; lần hai
từ ngày 15 đến ngày 20 trong tháng, nộp số phần trăm còn lại và được thanh toán
theo thực tế vào 5 ngày đầu tháng sau.
8. Các cơ quan tài chính (Sở tài
chính, chi cục hoặc phòng thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp Trung
ương) và Sở lâm nghiệp có trách nhiệm kiểm tra, giám đốc các liên hiệp lâm công
nghiệp, các lâm trường quốc doanh, các hạt (trạm) kiểm lâm nhân dân thu và nộp
tiền nuôi rừng đúng, đủ, kịp thời theo chế độ quy định.
B. SỬ DỤNG TIỀN NUÔI RỪNG
Tiền nuôi rừng được sử dụng toàn
bộ vào mục đích trồng cây gây rừng, tu bổ, cải tạo, quản lý bảo vệ rừng, cụ thể:
1. Đầu tư xây dựng cơ bản: Chi
cho việc lập luận chứng kinh tế kỹ thuật các lâm trường, trồng rừng, chăm sóc,
tỉa thưa rừng, tạo rừng giống, tu bổ rừng tự nhiên; xây dựng vườn ươm, làm đường,
xây dựng kho tàng, nhà cửa... để phục vụ trực tiếp cho công tác lâm sinh; góp vốn
và hỗ trợ hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đã được giao đất, giao rừng trong các
vùng đã được quy hoạch trồng rừng tập trung nhằm cung cấp nguyên liệu cho Nhà
nước; trồng rừng tại các vùng định canh định cư, các vùng kinh tế mới.
2. Chi sự nghiệp quản lý bảo vệ
rừng:
- Chi cho công tác điều chế rừng
bao gồm công tác lâm sinh trước và sau khai thác.
- Chi quản lý rừng; Chi điều
tra, quy hoạch lâm nghiệp; Chi thiết kế kinh doanh rừng, xây dựng tiểu khu rừng;
Chi giao đất giao rừng, hướng dẫn nhân dân làm nương rẫy, khoanh nuôi rừng; quản
lý rừng cấm, rừng thắng cảnh, vườn quốc gia, rừng phòng hộ.
- Chi phòng chống cháy rừng,
phòng trừ sâu bệnh như làm đường ranh cản lửa, kênh cản lửa, chòi canh lửa, dự
báo sâu bệnh; mua sắm dụng cụ và thuốc trừ sâu bệnh.
- Chi về thực nghiệm khoa học và
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật lâm sinh.
- Chi tuyên truyền hướng dẫn
nhân dân bảo vệ rừng.
- Chi duy trì lực lượng kiểm lâm
nhân dân (lực lượng kiểm lâm nhân dân thuộc tỉnh quản lý thì chi bằng tiền nuôi
rừng của ngân sách địa phương, lực lượng kiểm lâm nhân dân thuộc các lâm phận
do Trung ương quản lý thì chi bằng tiền nuôi rừng thuộc ngân sách Trung ương)
và chi phụ cấp cho người làm công tác chuyên trách quản lý rừng tại xã.
- Chi trợ cấp trồng cây nhân dân
theo chế độ hiện hành.
3. Các nhu cầu chi phát triển sự
nghiệp trồng rừng, quản lý, bảo vệ rừng, xây dựng vốn rừng của các liên hiệp
lâm công nghiệp, các lâm trường quốc doanh, các đơn vị sự nghiệp lâm trường thuộc
khu vực kinh tế Trung ương và các đơn vị địa phương làm nhiệm vụ trồng rừng thuộc
vùng nguyên liệu giấy sợi và gỗ trụ mỏ trọng điểm (Trung ương quy định) do ngân
sách Trung ương chi.
4. Việc quản lý cấp phát vốn,
chi tiêu tiền nuôi rừng phải theo đúng chế độ quản lý tài chính hiện hành của
Nhà nước, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thông qua cơ quan tài chính và lâm nghiệp
hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các liên hiệp lâm công nghiệp, các lâm trường; các
chi cục, hạt (trạm) kiểm lâm nhân dân, các đơn vị sự nghiệp lâm nghiệp khác chi
đúng chế độ, đúng mục đích.
C. LẬP KẾ HOẠCH THU CHI TIỀN
NUÔI RỪNG VÀ KẾ HOẠCH LÂM SINH
- Từng thời kỳ kế hoạch, các
liên hiệp lâm công nghiệp, các lâm trường quốc doanh, các chi cục, hạt (trạm)
kiểm lâm nhân dân, các đơn vị sự nghiệp lâm nghiệp căn cứ vào số kiểm tra kế hoạch
về nhiệm vụ khai thác lâm sản, đặc sản rừng, nhiệm vụ trồng, chăm sóc, tu bổ, bảo
vệ, quản lý rừng và kế hoạch trồng cây nhân dân của đơn vị mình để lập kế hoạch
thu chi tiền nuôi rừng và bảo vệ kế hoạch với Sở lâm nghiệp (nếu là đơn vị trực
thuộc địa phương), bảo vệ kế hoạch với Bộ Lâm nghiệp (nếu là đơn vị trực thuộc
Trung ương và các đơn vị địa phương thuộc vùng quy hoạch trồng rừng tập trung
cung cấp nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ được ngân sách Trung ương đầu tư).
- Sở lâm nghiệp tổng hợp kế hoạch
thu chi tiền nuôi rừng trong phạm vi địa phương, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh và
Bộ Lâm nghiệp, đồng gửi cho Uỷ ban kế hoạch và Sở Tài chính.
- Bộ Lâm nghiệp tổng hợp kế hoạch
thu chi tiền nuôi rừng toàn quốc cùng với kế hoạch kinh tế kỹ thuật trình Hội đồng
Bộ trưởng và đồng gửi cho Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính.
- Số thu tiền nuôi rừng, chi xây
dựng cơ bản trồng rừng và các nhu cầu chi tiêu khác phục vụ trực tiếp cho công
tác lâm sinh nói trên được ghi thành chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước tương ứng
với chỉ tiêu khối lượng và bảo đảm cân đối với kế hoạch lao động, vật tư, thiết
bị.
- Trong quá trình cân đối thu
chi tiền nuôi rừng, nếu địa phương nào có số thu tiền nuôi rừng ít hơn nhu cầu
chi phát triển sự nghiệp trồng rừng và quản lý bảo vệ rừng đã được kế hoạch Nhà
nước giao, thì ngân sách Nhà nước đầu tư thêm cho đủ. Khi có nhu cầu chi theo
thời vụ lớn hơn khả năng thu tiền nuôi rừng trong cùng thời kỳ thì được ngân
sách ứng trước.
D. QUYẾT TOÁN THU CHI TIỀN NUÔI
RỪNG
Mỗi khoản thu chi tiền nuôi rừng
phải được quyết toán hàng quý, hàng năm theo chế độ báo cáo quyết toán hiện
hành về kinh phí sự nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, thu nộp tiền nuôi rừng.
Hệ thống biểu báo và thời gian
báo cáo do Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn sau khi được sự thoả thuận của Bộ Tài chính.
Các Sở lâm nghiệp xét duyệt và tổng
hợp quyết toán của các đơn vị thuộc địa phương mình trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Cơ quan tài chính địa phương có
trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán của các đơn vị cơ sở, giúp Uỷ ban nhân
dân tỉnh duyệt quyết toán tổng hợp thu, chi tiền nuôi rừng trước khi gửi liên Bộ
Tài chính - Lâm nghiệp - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước.
III. THƯỞNG
PHẠT
Ngoài việc thưởng, phạt theo chế
độ Nhà nước đã quy định cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, sự nghiệp thì các
đơn vị thực hiện thu chi tiền nuôi rừng nếu đem lại được hiệu quả thiết thực,
tính được bằng giá trị cụ thể, thì được sử dụng một phần giá trị này để lập 3
quỹ.
1. Đối với các đơn vị kinh tế quốc
doanh.
- Nếu hoàn thành kế hoạch trồng,
chăm sóc, tu bổ, cải tạo, quản lý, bảo vệ rừng theo đúng quy trình kỹ thuật, bảo
đảm tỷ lệ cây sống theo quy định mà vẫn tiết kiệm được chi phí (so với định mức
chi tiêu hoặc định mức kinh tế kỹ thuật) thì được trích 70% số tiền tiết kiệm để
lập 3 quỹ.
- Những đơn vị bảo đảm được diện
tích rừng khép tán đúng thời gian, có số lượng cây sống cao, bảo đảm độ đồng đều
trên diện tích, tỷ lệ thành rừng vượt mức quy định và tính được bằng giá trị có
xác nhận của cơ quan, nghiệm thu, được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận (nếu là
đơn vị địa phương). Bộ Lâm nghiệp công nhận (nếu là đơn vị Trung ương) thì được
trích từ 30% đến 50% giá trị tăng lên trên đây để lập 3 quỹ, nguồn chi cho khoản
này lấy từ tiền nuôi rừng.
- Số tiền được trích thưởng trên
đây được phân bổ vào 3 quỹ như sau: 60% cho quỹ khen thưởng, 20% cho quỹ phúc lợi,
20% cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất.
2. Đối với lực lượng kiểm lâm
nhân dân.
Các đơn vị Kiểm lâm nhân dân có
thành tích trong việc quản lý bảo vệ rừng, hoàn thành kế hoạch bảo vệ rừng và
thu nộp tiền nuôi rừng (xét cả 2 chỉ tiêu bảo vệ và thu nộp tiền nuôi rừng,
trong chỉ tiêu bảo vệ thì đặc biệt chú ý đến cháy rừng, chặt phá rừng) được xét
khen thưởng, mức thưởng không vượt quá 3 tháng lương (lương cấp bậc bình quân
và phụ cấp tạm thời theo Quyết định số 219-CP).
3. Đối với những người có công
phát hiện và tham gia bắt các vụ phạm pháp về lâm nghiệp (kể cả Kiểm lâm nhân
dân và chuyên quản tài chính) thì được xét thưởng theo Nghị định 46-HĐBT ngày
10-5-1983 của Hội đồng Bộ trưởng.
Phạt các đơn vị kinh tế quốc
doanh không hoàn thành kế hoạch nộp tiền nuôi rừng, hoặc nộp không đúng thời hạn...
thì sẽ bị phạt giảm trừ khi trích 3 quỹ như Thông tư số 21-TC/CNA ngày 1-9-1982
của Bộ Tài chính.
IV. ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Thông tư này có hiệu lực từ ngày
11 tháng 1 năm 1984 thay thế cho các Thông tư hướng dẫn quản lý sử dụng quỹ
nuôi rừng trước đây.
Để bảo đảm chuyển giao việc quản
lý thu chi tiền nuôi rừng sang ngân sách được đầy đủ chính xác, các Sở lâm nghiệp
và tài chính cần kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị có thu hoặc
chi tiền nuôi rừng thanh quyết toán số thu chi tiền nuôi rừng của đơn vị mình
năm 1983, xác định rõ số tiền nuôi rừng phải nộp, số đã nộp, số thiếu phải nộp
tiếp, số thừa phải thoái trả; các khoản chi đã được cấp, số thiếu cần được cấp,
đồng thời xử lý các trường hợp chiếm dụng quỹ nuôi rừng, chi tiêu bất hợp lý và
báo cáo kết quả về liên bộ.
Các Sở tài chính, lâm nghiệp, Uỷ
ban Kế hoạch tỉnh theo chức năng của mình giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức triển
khai thực hiện đúng quy định của Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện các cơ
sở địa phương có vướng mắc gì phản ảnh kịp thời để liên bộ nghiên cứu giải quyết.
Hồ
Ngọc Nhường
(Đã
ký)
|
Ngô
Văn Bính
(Đã
ký)
|
Lê
Bá Thuỷ
(Đã
ký)
|