Thông tư 84-TTg năm 1962 hướng dẫn thi hành khen thưởng nhân dân có công trong kháng chiến do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 84-TTg
Ngày ban hành 22/08/1962
Ngày có hiệu lực 06/09/1962
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Lê Thanh Nghị
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 84-TTg

Hà Nội, ngày 22 tháng 08 năm 1962 

 

THÔNG TƯ

QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH VIỆC KHEN THƯỞNG NHÂN DÂN CÓ CÔNG TRONG KHÁNG CHIẾN

Căn cứ vào Pháp lệnh số 06-NQ-TVQH ngày 29 tháng 8 năm 1960 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và bản điều lệ kèm theo, ban hành ngày 28-9-1960 về việc khen thưởng thành tích kháng chiến và căn cứ vào nghị quyết của Hội nghị thường vụ Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành việc khen thưởng tổng kết đối với nhân dân đã có nhiều công lao và thành tích trong thời kỳ kháng chiến như sau:

I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG KHEN THƯỞNG NHÂN DÂN CÓ CÔNG TRONG KHÁNG CHIẾN

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là do nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu trong tám chín năm liền, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.

Sau việc khen thưởng trong quân đội, thi hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành khen thưởng thành tích kháng chiến cho cán bộ, công nhân, viên chức của các ngành và cán bộ xã. Nay Hội đồng Chính phủ quyết định cho tiến hành việc khen thưởng nhân dân có công với kháng chiến để biểu dương thành tích kháng chiến gian khổ và vô cùng anh dũng của dân tộc ta, đồng thời để phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của nhân dân ta và động viên mọi người phấn khởi thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước năm năm lần thứ nhất, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Việc khen thưởng này có tác dụng lớn đối với phong trào cách mạng của đồng bào miền Nam nước ta.

Thành tích kháng chiến của nhân dân rất lớn lao và muôn hình muôn vẻ, lại gắn liền vào những sự việc xảy ta đã lâu ngày, cho nên cũng như đối với cán bộ và công nhân, viên chức thuộc các cơ quan chính quyền và đoàn thể, việc khen thưởng này tiến hành với tính chất tổng kết, dựa vào một số tiêu chuẩn phổ biến; vì vậy không thể đòi hỏi sự tính toán công bằng tuyệt đối.

Để việc khen thưởng khỏi tràn lan và có tác dụng tốt đối với quần chúng, phương hướng khen thưởng định như sau:

1. Người được khen thưởng phải có mức độ thành tích nhất định tức là đã đóng góp phần xứng đáng của mình về sức người, sức của cho kháng chiến.

2. Việc khen thưởng chủ yếu nhằm vào những người trong thời kỳ kháng chiến đã tích cực đóng góp tài năng và sức lực của mình, đã biểu thị tinh thần dũng cảm đấu tranh với địch.

Các hình thức khen thưởng là bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, huy chương kháng chiến, huân chương Kháng chiến, và các huân chương cao hơn.

II. ĐỐI TƯỢNG KHEN THƯỞNG

Đối tượng khen thưởng là những cá nhân và những gia đình đã tích cực tham gia kháng chiến hoặc tích cực giúp đỡ kháng chiến. Nhưng cán bộ xã và thôn, xóm thường xuyên có công tác mà chưa được xét thưởng theo Thông tư số 15-TTg ngày 12-01-1961 trước đây, nay được xét thưởng theo thông tư này.

III. TIÊU CHUẨN KHEN THƯỞNG

Tuỳ theo công lao lớn hay nhỏ đối với kháng chiến, những người có thành tích được khen thưởng theo các mức như sau:

A. Tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ:

Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng cho những người có thành tích như sau:

1. Ở các thành phố, thị xã, thị trấn bị địch chiếm đóng, hoặc ở các thôn xã có tề, ngụy gian ác:

- Đã nuôi dưỡng và bảo vệ thương binh từ ba lần hoặc 15 ngày trở lên.

- Đã cho cất dấu vũ khí ở trong nhà từ ba tháng hoặc năm lần trở lên.

- Đã cho mượn nhà chuyên làm địa điểm liên lạc của các tổ chức kháng chiến từ ba tháng trở lên.

- Đã thường xuyên chứa và bảo vệ cán bộ, bộ đội, du kích từ ba tháng trở lên, hoặc chứa cán bộ về hoạt động gây cơ sở kháng chiến đầu tiên ở khu phố, đường phố, thị trấn, hoặc ở thôn.

- Đã làm công tác mật giao, chuyên đưa tài liệu, tin tức, làm liên lạc, chở đò cho cán bộ, bộ đội, du kích từ sáu tháng trở lên.

2. Ở vùng nông thôn tạm bị chiếm (ngoài các thôn có tề, ngụy gian ác) và ở vùng du kích:

- Đã nuôi dưỡng và bảo vệ thương binh từ năm lần hoặc một tháng trở lên;

- Đã cho mượn nhà để chứa vũ khí, làm kho tàng của Nhà nước từ ba tháng trở lên.

- Đã cho mượn nhà để đặt trụ sở cơ quan chính quyền, đoàn thể, quân đội, dân quân du kích từ cấp xã trở lên (Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, Chi bộ xã, Xã hội) từ một năm trở lên.

- Đã thường xuyên chứa và bảo vệ cán bộ, bộ đội, du kích từ một năm trở lên.

[...]