BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
82/TC-CN
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1991
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 82/TC-CN NGÀY 31-12-1991 HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ
BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN KINH DOANH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Thi hành quyết định số 332/HĐBT
ngày 23-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh
đối với các doanh nghiệp Nhà nước; Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện như sau:
1. NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
a) Thi hành Chỉ thị số 138/CT
ngày 25-4-1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc mở rộng diện trao quyền
sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất - kinh doanh cho các đơn vị cơ sở
quốc doanh, Bộ Tài chính đã có thông tư số 31 TC/CN ngày 27-5-1991 hướng dẫn chế
độ bảo toàn và phát triển vốn.
Thông tư này chỉ hướng dẫn bổ
sung cụ thể thêm và sửa đổi một số điểm trong thông tư 31 TC/CN nói trên theo
tinh thần quyết định số 332/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
b) Trong quá trình hoạt động sản
xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp có trách nhiệm chủ động thực hiện việc bảo
toàn và phát triển vốn hiện có. Nhà nước công bố các hệ số điều chỉnh giá trị
TSCĐ và chỉ số trượt giá một số tài sản lưu động là vật tư thiết yếu của nền
kinh tế quốc dân để làm căn cứ xác định mức vốn phải bảo toàn của các doanh
nghiệp và xử lý, điều chỉnh các trường hợp áp dụng hệ số tăng vốn tự bảo toàn của
doanh nghiệp thấp hơn hoặc cao hơn hệ số vốn phải bảo toàn.
2. VỀ CHẾ ĐỘ
BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN CỐ ĐỊNH
a) Do yêu cầu áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đổi mới mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng và
phát triển sản xuất - doanh nghiệp được chủ động thực hiện việc đổi mới thay thế
TSCĐ, kể cả những TSCĐ chưa hết thời hạn khấu hao trên nguyên tắc: bảo toàn được
vốn, sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn, không nhằm mục đích mua đi bán lại tạo
chênh lệch giá để ăn chia vào vốn.
Khi tiến hành đổi mới, thay thế
hoặc thanh lý những TSCĐ thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp, các doanh nghiệp
phải báo cáo với cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính cùng cấp biết để
kiểm tra, theo dõi. Trường hợp giảm vốn do thanh lý tài sản thì phải có ý kiến
quyết định của cơ quan tài chính và cơ quan chủ quản.
Số tiền nhượng bán, thu hồi do
thanh lý TSCĐ chỉ được sử dụng để tái đầu tư và phải được gửi vào ngân hàng đầu
tư và phát triển.
Đối với các doanh nghiệp phải giải
thể thì tiền nhượng bán tài sản được xử lý theo quyết định số 330/HĐBT ngày
23-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng bổ sung sửa đổi quyết định số 315/HĐBT về giải
thể xí nghiệp.
Các công trình đầu tư XDCB đình
thi công thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp hoặc vay nợ Nhà nước thì xử lý
theo quyết định riêng đối với từng công trình cụ thể.
Trường hợp các doanh nghiệp cần
chuyển một phần tiền thu hồi vốn này sang bổ sung vốn lưu động theo quyết định
số 378/HĐBT ngày 16-11-1991 "về những biện pháp giải quyết vốn lưu động của
các doanh nghiệp Nhà nước" (tại điểm C điều 4) thì phải báo cáo cơ quan
tài chính cùng cơ quan chủ quản xem xét để quyết định bổ sung vốn lưu động cho
doanh nghiệp.
b) Đối với các doanh nghiệp đang
hoạt động khó khăn vì sự hình thành về mặt cơ cấu TSCĐ trước đây bị lạc hậu thì
việc tính khấu hao TSCĐ được giải quyết trích dần từng bước cho phù hợp với sự
phấn đấu của các doanh nghiệp, nhưng TSCĐ phải được tính đúng giá trị. Cơ quan
chủ quản cấp trên và cơ quan tài chính cùng cấp xác định mức khấu hao cơ bản
cho các doanh nghiệp này theo hướng tăng dần lên cho đủ tỷ lệ khấu hao cơ bản
đã quy định, trên nguyên tắc căn cứ vào mức độ huy động công suất và hiệu quả của
TSCĐ trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
c) Các Bộ chủ quản quản lý ngành
phải căn cứ vào giá trị hiện hành của TSCĐ nhập khẩu và trong nước của ngành
mình để có các phương án về hệ số tính lại giá trị TSCĐ thuộc ngành mình quản
lý vào các thời điểm 01/01 và 01/7 hàng năm. Bộ Tài chính sẽ cùng với bộ Bộ chủ
quản xem xét các dự án đó, sau khi tham khảo ý kiến của Ủy ban Vật giá Nhà nước,
Tổng cục thống kê và Bộ xây dựng (đối với các công trình bao che, nhà cửa, vật
kiến trúc...), Bộ Tài chính sẽ thực hiện việc công bố các hệ số tính lại giá trị
TSCĐ cho từng ngành trong thời hạn không chậm hơn 30 ngày sau các thời điểm nói
trên.
Các hệ số này áp dụng cho từng
ngành, kể cả Trung ương và địa phương.
d) Các hệ số điều chỉnh giá trị
TSCĐ là căn cứ để xác định đúng đắn giá trị khôi phục của TSCĐ vào thời điểm
quy định được tính toán trên cơ sở mức tăng giá của TSCĐ tính bằng tiền trong
nước phù hợp với cơ cấu và đặc điểm kinh tế kỹ thuật TSCĐ từng ngành, có tính đến
yếu tố hao mòn vô hình của TSCĐ (nếu có).
Như vậy, trong thông tư số 31/
TC/CN ngày 27-5-1991 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ bảo toàn vốn có quy định
hai hệ số: hệ số tăng vốn và hệ số hao mòn vô hình (nếu có), nay gộp chung lại
thành hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ do cơ quan có thẩm quyền công bố.
Công thức tính số vốn phải bảo toàn
đến cuối kỳ được xác định lại như sau:
Số
vốn phải bảo toàn đến cuối kỳ báo cáo
|
-
|
Số
vốn dược giao đầu kỳ (hoặc số phải bảo toàn đến đầu kỳ)
|
-
|
Khấu
hao cơ bản trích trong kỳ
|
x
|
Hệ
số điều chỉnh giá trị TSCĐ
|
-
|
Tăng
giảm vốn trong kỳ
|
Riêng
phần tăng giảm vốn trong kỳ, hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ được
xác định cho từng trường hợp cụ
thể trên cơ sở giá cả thực tế, TSCĐ khi tăng giảm vốn và thời điểm tăng giảm vốn
trong kỳ, do cơ quan tài chính, và cơ quan quản lý cấp trên xác định khi xét
duyệt quyết toán cho đơn vị.
Các hệ số do các doanh nghiệp đã
áp dụng để tự điều chỉnh giá trị TSCĐ trong kỳ không được thấp hơn hệ số do Nhà
nước công bố đầu kỳ và không được cao hơn hệ số do Nhà nước công bố cuối kỳ.
Các trường hợp áp dụng hệ số cao
hơn hoặc thấp hơn đều được điều chỉnh lại theo quy định ở mục 4 dưới đây.
Mức nộp thuế vốn và thuế lợi tức
trong kỳ xác định trên cơ sở hệ số điều chỉnh do Nhà nước công bố đầu kỳ.
Phần ví dụ về cách tính số vốn
phải bảo toàn đến cuối kỳ trong thông tư số 31/CN nói trên cũng được quy định lại
như sau:
Số vốn ngân sách cấp đầu tư ban
đầu cho TSCĐ của xí nghiệp bao gồm: vốn cố định (giá trị còn lại của TSCĐ) và số
dư về KHCB để lại xí nghiệp (đã trừ phần nộp ngân sách và phần sử dụng) đến thời
điểm giao vốn 1-1-1991 là:
+ Vốn cố định (NSNN cấp): 500
tr.đồng
+ Số dư KHCB để lại xí nghiệp:
30 tr.đồng
Cộng vốn giao cho xí nghiệp để
tính thu tiền sử dụng vốn trong năm 1991: 530 tr.đồng. Đồng thời trong năm 1991
xí nghiệp đã trích KHCB tổng số là 50 tr.đồng.
Để xác định số vốn phải bảo toàn
đến cuối năm 1991, phải tính hệ số trượt giá như sau:
Vào thời điểm 1-1-1991 thì giá
trị TSCĐ vẫn được xác định trên cơ sở kết quả kiểm kê đánh giá lại TSCĐ
1-1-1990, nghĩa là theo tỷ giá Rúp 2.400/R và tỷ giá đôla 3.900đ/USD. trong tổng
số vốn cố định 500 tr.đồng thì hình thành từ 3 nguồn: một phần TSCĐ nhập khẩu từ
khu vực I theo tỷ giá Rúp; một phần nhập từ khu vực II theo tỷ giá đôla và một
phần vốn trong nước.
Giả định, đến thời điểm 1-1-1992
bỏ tỷ giá Rúp; tỷ giá đôla lên 8000/USD. Do đó tính được:
+ Hệ số tăng vốn chung cho phần
TSCĐ nhập khẩu là:
8.000
= 2,3
3.900
|
(phần giá trị TSCĐ tính từ Rúp
coi như tương ứng với bằng giá TSCĐ tính từ đôla)
|
+ Hệ số tăng vốn phần đầu tư
trong nước là 1,3. Căn cứ cơ cấu hình thành TSCĐ của xí nghiệp, hệ số chung
tăng vốn của xí nghiệp là 1,7.
+ Do có hệ số hao mòn được giả định
là 0,9; Nên hệ số chung để điều chỉnh giá trị TSCĐ công bố sẽ là:
1,7 ´ 0,9 = 1,53
Như vậy số vốn cố định xí nghiệp
phải bảo toàn và là căn cứ tính số thu tiền sử dụng vốn chính thức cho năm sau
(năm 1992) là:
(500tr - 50tr) ´ 1,53 = 688 tr.đồng
Đối với số vốn tăng giảm trong
năm thì phải căn cứ vào thời điểm tăng giảm vốn và giá thực tế TSCĐ để điều chỉnh
hệ số bảo toàn vốn cho phù hợp.
Đến năm 1992 tiếp theo, số vốn
phải bảo toàn lại được xác định trên cơ sở của 688 tr.đồng cộng với số tăng giảm
trong năm (nếu có); tiền sử dụng vốn được thu trên cơ sở 688 tr.đồng, cộng với
số tăng giảm, trong năm (nếu có) và cộng với số dư KHCB đầu năm 1992.
Như vậy, trên thực tế Nhà nước
đã không thu tiền sử dụng vốn trên số vốn phải bảo toàn từ khi phát sinh trượt
gía trong kỳ mà chỉ thu trên số vốn phải bảo toàn tính đến đầu kỳ.
Từ năm 1992 số vốn phải bảo toàn
được xác định 2 kỳ (01/7 và 01/01) theo các nguyên tắc quy định trên.
Xí nghiệp căn cứ vào kết quả xác
định số vốn phải bảo toàn nói trên để điều chỉnh hạch toán nâng giá TSCĐ và vốn
cố định lên theo hệ số tương ứng. Xí nghiệp có thể chủ động nâng giá TSCĐ từ
khi có thay đổi tỷ giá hoặc điều chỉnh tăng TSCĐ cho phù hợp, mà không chờ vào
dịp cuối năm khi xét duyệt chính thức số bắt buộc phải bảo toàn.
Do đó, thực tế số vốn cố định đã
bảo toàn được của xi nghiệp không nhất thiết trùng với số vốn cố định phải bảo
toàn giao cho xí nghiệp.
Trong năm nếu xí nghiệp thay đổi,
làm mất mát, hoặc hư hỏng trước thời hạn phải thanh lý v.v... thì số vốn thực
có trên sổ sách cũng sẽ thấp hơn số vốn phải bảo toàn đến cuối năm.
3. VỀ CHẾ ĐỘ
BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN LƯU ĐỘNG
Áp dụng như mục 2 "Bảo toàn
vốn lưu động" trong phần II thông tư số 31/TC/CN ngày 27-5-1991 của Bộ Tài
chính.
Khi xác định số vốn phải bảo
toàn của doanh nghiệp, hệ số trượt giá bình quân của vốn lưu động được xác định
phù hợp với đặc điểm cơ cấu tài sản lưu động từng ngành, từng doanh nghiệp trên
cơ sở mức tăng giá thực tế cuối kỳ 90 với đầu kỳ của một số vật tư chủ yếu tính
theo cơ cấu kế hoạch (định mức) vốn của từng doanh nghiệp.
Trường hợp một số vật tư thiết yếu
chỉ có số trượt giá do các cơ quan có thẩm quyền (Tổng cục Thống kê và UBVGNN)
công bố thì cơ quan Tài chính và cơ quan chủ quản cấp trên phải căn cứ vào chỉ
số đó để xác định hệ số trượt giá vốn lưu động của từng doanh nghiệp cho thích
hợp.
4. XỬ LÝ
TRÁCH NHIỆM BẢO TOÀN VỐN
a) Việc xử lý trách nhiệm bảo
toàn vốn áp dụng như mục 3 "xử lý trách nhiệm bảo toàn vốn" trong phần
II thông tư số 31/TC/CN ngày 27-5-1991 của Bộ Tài chính. Ngoài ra, thông tư này
bổ sung và nói rõ thêm một số trường hợp dưới đây:
- Trường hợp không bảo toàn được
vốn lưu động do không có vật tư dự trữ và do đó không có chênh lệch giá vào các
thời điểm tăng giá thì xí nghiệp có trách nhiệm tự bổ sung bằng nguồn qũy xí
nghiệp của mình, trong đó chủ yếu là nguồn qũy khuyến khích phát triển sản xuất
của xí nghiệp.
Nếu qũy phát triển sản xuất
không đủ nguồn thì cơ quan tài chính cùng với cơ quan quản lý cấp trên xem xét
cho trích thêm vào giá thành khoản tiền còn thiếu đó để đảm bảo mức vốn phải bảo
toàn. Khoản trích này được tính trong giá thành để xác định lợi tức chịu thuế.
- Trường hợp do mất mát hư hỏng
vật tư, tài sản làm giảm vốn do trách nhiệm của cá nhân thì phải truy cứu trách
nhiệm và xử lý theo pháp luật. Do các nguyên nhân chủ quan khác thì sử dụng vốn
tự có về đầu tư XDCB của xí nghiệp, trong đó có qũy khuyến khích phát triển sản
xuất để tự bù đắp. Nếu thiếu thì trừ vào qũy khen thưởng và phúc lợi.
- Để tránh các trường hợp không
bảo toàn được vốn do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch hoạ, rủi ro
trong quá trình sản xuất kinh doanh... tránh các trường hợp phải xử lý giảm vốn
hoặc đưa vào lỗ doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để
tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại các Công ty bảo hiểm Việt Nam. Khoản
chi vào phí bảo hiểm được hạch toán vào giá thành hoặc phí lưu thông của doanh
nghiệp. Nhà nước sẽ không cho giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì
những rủi ro mà Công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai những loại hình bảo
hiểm tương ứng để xử lý.
b) Giám đốc và kế toán trưởng
doanh nghiệp, Hội đồng quản trị doanh nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp trước
Nhà nước về việc lập báo cáo kịp thời quyết toán tài chính theo định kỳ, trong
đó xác định kết quả sản xuất kinh doanh và việc thực hiện chế độ bảo toàn và
phát triển vốn của doanh nghiệp. Thủ trưởng cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý
tài vụ XNQD của Bộ (Sở) tài chính phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhà nước
về việc phê duyệt quyết toán hàng năm của doanh nghiệp, xử lý các trường hợp
không bảo toàn được vốn theo đúng các quy định trong thông tư này.
5. ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày ký và áp dụng cho việc xác định số vốn cố định và vốn lưu động phải
bảo toàn của các doanh nghiệp quốc doanh từ thời điểm giao nhận vốn (1-1-1991 đến
cuối năm 1991 (1-1-1992).
Những điều khoản quy định trước
đây trong thông tư số 31/TC/CN ngày 27-5-1991 của Bộ Tài chính đã được sửa đổi
và bổ sung trong thông tư này và các quy định khác của các ngành, các địa
phương trái với thông tư này đều bãi bỏ. Những điều khoản khác trong Thông tư
31/TC/CN vẫn có hiệu lực thi hành.