Thông tư 38-VP/TH năm 1974 về sản xuất và phân phối gỗ xẻ do Tổng cục Lâm nghiệp ban hành
Số hiệu | 38-VP/TH |
Ngày ban hành | 28/12/1974 |
Ngày có hiệu lực | 12/01/1975 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Tổng cục Lâm nghiệp |
Người ký | Hoàng Bửu Đôn |
Lĩnh vực | Thương mại,Tài nguyên - Môi trường |
TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP |
VIỆT
|
Số: 38-VP/TH |
Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 1974 |
VỀ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI GỖ XẺ
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Để thực hiện phân phối gỗ xẻ theo nghị quyết số 188-CP ngày 02-08-1974 của Hội đồng Chính phủ và chỉ thị số 144-TTg ngày 09-05-1974 của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã có Thông tư số 2-UB/VT ngày 11-9-1974 hướng dẫn việc lập kế hoạch về cung ứng gỗ tròn và gỗ xẻ năm 1975, Thông tư này của Tổng cục Lâm nghiệp quy định tạm thời thể thức thực hiện về các mặt: kế hoạch hóa sản xuất gỗ xẻ, mối quan hệ giữa khâu sản xuất với khâu tiêu thụ, quản lý phân phối gỗ xẻ.
Chấp hành quyết định số 17-CP ngày 03-02-1972 của Hội đồng Chính phủ về quản lý thống nhất việc khai thác, thu mua, phân phối gỗ và các cơ sở cưa xẻ gỗ, đến nay nhiều ngành lâm địa phương mới chuyển giao sang ngành lâm nghiệp một phần cơ sở cưa, xẻ gỗ. do việc quản lý phân tán trước đây, lại thêm hậu quả của chiến tranh phá hoại nên các cơ sở cưa xẻ gỗ chưa được bố trí theo một quy hoạch hợp lý; nhiều mặt thiếu cân đối giữa khả năng nguyên liệu, địa bàn tiêu thụ và năng lực sản xuất. Muốn thực hiện đầy đủ chủ trương phân phối gỗ xẻ, phải từng bước quy họach lại mạng lưới cưa xẻ, thay đổi tập quán sử dụng gỗ..., đó là công việc phức tạp. Trước mắt Tổng cục Lâm nghiệp quy định tạm thời những thể thức cần thiết để bước đầu thực hiện phân phối gỗ xẻ, trong quá trình thực hiện sẽ bổ sung hòan chỉnh nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của việc phân phối gỗ xẻ.
I. VỀ KẾ HOẠCH HÓA SẢN XUẤT GỖ XẺ:
1. Các xí nghiệp cưa xẻ gỗ thuộc Tổng cục Lâm nghiệp quản lý có nhiệm vụ sản xuất gỗ xẻ để cung ứng cho nhu cầu tại các trung tâm tiêu thụ và để dự trữ gỗ xẻ theo kế hoạch Nhà nước, sẽ được giao chỉ tiêu kế họach sản xuất gỗ xẻ, chi tiêu nguyên liệu gỗ tròn (có phân biệy gỗ cỡ lớn và gỗ cỡ nhỏ) và các chi tiêu kế họach biện pháp về lao động, vật tư, kỹ thuật, tiền vốn, xây dựng cơ bản cân đối với kế họch sản lượng được giao để tạo điều kiện cho xí nghiệp hòan thành nhiệm vụ.
2. Các xí nghiệp cưa xẻ gỗ của địa phương do ty lâm nghiệp quản lý có nhiệm vụ sản xuất gỗ xẻ cho nhu cầu địa phương, và nhu cầu trung ương tại địa phương. Căn cứ vào năng lực sản xuất của xí nghiệp và quy họach mạng lưới cưa, xẻ gỗ, Tổng cục Lâm nghiệp sẽ giao chỉ tiêu sản xuất gỗ xẻ để đáp ứng các nhu cầu đó. Ngoài ra Tổng cục có thể giao thêm chỉ tiêu sản xuất gỗ xẻ để điều động cung cấp nơi khác.
3. Các cơ sở cưa xẻ gỗ của lâm trường có nhiệm vụ chủ yếu là tận dụng gỗ cỡ nhỏ và gỗ dưới tiêu chuẩn để sản xuất mặt hàng gỗ xẻ quy cách nhỏ. Căn cứ vào khả năng thiết bị cưa xẻ gỗ, khả năng nguyên liệu gỗ cỡ nhỏ và địa bàn tiêu thụ, Tổng cục sẽ duyệt các chỉ tiêu sau đây trong kế hoạch của các lâm trường trực thuộc, các ty lâm nghiệp và công ty lâm nghiệp:
- Chỉ tiêu mặt hàng gỗ xẻ quy cách nhỏ;
- Chỉ tiêu gỗ tròn cỡ nhỏ được chế biến tại chỗ, có căn cứ vào tỷ lệ thành khí gỗ xẻ theo mặt hàng. Chỉ tiêu này được tính vào chỉ tiêu gỗ tròn giao nộp.
Lâm trường phải đảm bảo sản xuất đúng nhiệm vụ kế họach mặt hàng gỗ xẻ quy cách nhỏ được giao trong phạm vi chỉ tiêu gỗ tròn cỡ nhỏ đã quy định. Việc giao kế hoạch và thực hiện kế hoạch cưa xẻ tại lâm trường phải nhằm mục đích tận dụng gỗ cỡ nhỏ, gỗ mất phẩm chất và có tác dụng hỗ trợ cho nhiệm vụ sản xuất chính là tu bổ rừng và khai thác gỗ.
4. Các xí nghiệp cưa xẻ gỗ thuộc diện phải chuyển giao cho ngành lâm nghiệp quản lý thống nhất như đã quy định trong điểm 1 chỉ thị số 114-TTg của Thủ tướng Chính phủ cần tích cực tiến hành chuyển giao để sớm ổn định sản xuất cho xí nghiệp ngay từ đầu năm 1975.
5. Đối với các cơ sở cưa xẻ gỗ của hợp tác xã tại các địa phương; công tu vật tư lâm sản tổ chức gia công cưa xẻ gỗ để cung ứng gỗ xẻ cho nhu cầu tại chỗ. Ở một số tỉnh nơi có rừng, do sản xuất và tiêu thụ còn nhỏ, quá phân tán, nếu công ty vật tư lâm sản chưa có điều kiện quản lý gia công thì cùng với ty lâm nghiệp bàn biện pháp để ty lâm nghiệp quản lý gia công.
II. VỀ CUNG CẤP NGUYÊN LIỆU GỖ TRÒN VÀ TIÊU THỤ GỖ XẺ CHO CÁC CƠ SỞ CƯA XẺ GỖ
Gỗ tròn và gỗ xẻ đều là vật tư do Nhà nước quản lý thống nhất. Các công ty vật tư lâm sản (hoặc xí nghiệp vật tư lâm sản) thuộc Tổng cục bán nguyên liệu gỗ tròn cho xí nghiệp quốc doanh cưa xẻ gỗ và thu mua lại tòan bộ sản phẩm gỗ xẻ để phân phối theo kế hoạch Nhà nước. Các xí nghiệp cưa xẻ gỗ không có quyền bán gỗ tròn hay gỗ xẻ cho bất cứ người nào khác ngoài công ty vật tư lâm sản thuộc Tổng cục Lâm nghiệp.
1. Đối với các xí nghiệp cưa xẻ gỗ thuộc Tổng cục Lâm nghiệp quản lý và các xí nghiệp cưa xẻ gỗ thuộc ty lâm nghiệp hay công ty lâm nghiệp quản lý, việc cung cấp nguyên liệu gỗ tròn và tiêu thụ gỗ xẻ được thực hiện theo phương thức sau đây: Công ty vật tư lâm sản (hoặc xí nghiệp vật tư lâm sản) thuộc Tổng cục bán nguyên liệu gỗ tròn cho xí nghiệp theo chi tiêu kế hoạch Nhà nước với giá bán buôn vật tư gỗ tròn, xí nghiệp ở khu vực nào thì áp dụng giá bán buôn vật tư ở khu vực đó, và mua lại toàn bộ sản phẩm gỗ xẻ theo giá bán buôn công nghiệp gỗ xẻ đương duyệt cho từng xí nghiệp.
Xí nghiệp cưa xẻ gỗ mua nguyên liệu gỗ tròn của công ty vật tư lâm sản tại địa điểm được Tổng cục Lâm nghiệp duyệt trong kỳ kế hoạch. Để giảm bớt khâu trung gian không cần thiết, Tổng công ty phân phối lâm sản sẽ tổ chức để các công ty vật tư lâm sản ở vùng có rừng vận tải và giao thẳng gỗ tròn cho các xí nghiệp cưa xẻ thuộc Tổng cục ở vùng đồng bằng theo giá bán buôn vật tư gỗ tròn áp dụng tại địa điểm giao nhận gỗ cho xí nghiệp.
Trên cơ sở phấn đấu đạt tỷ lệ thành phẩm gỗ xẻ cao, xí nghiệp được tận dụng phế liệu, phế phẩm để làm đồ mộc tận dụng theo chỉ tiêu hướng dẫn của Tổng cục. Xí nghiệp sẽ bán hoặc cho cơ quan thương nghiệp ở nơi gần nhất; nếu các cơ quan này không thoả thuận tiêu thụ thì xí nghiệp báo cáo lên cơ quan chủ quản trực tiếp của mình để được phép bán cho các cơ quan, xí nghiệp sử dụng. Về giá cả đồ mộc tận dụng phải do cơ quan có thẩm quyền xét duyệt trên nguyên tắc không được lỗ. Nhưng phế liệu, phế phẩm, xí nghiệp không có khả năng tận dụng như mùn cưa, dăm bào, đầu mầu nhỏ...sẽ bán cho ngành thương nghiệp làm chất đốt.
Xí nghiệp cưa xẻ gỗ và công ty vật tư lâm sản phải thực hiện đúng đắn hợp đồng kinh tế hàng năm và hàng quý nhằm bảo đảm cung cấp nguyên liệu gỗ tròn và tiêu thụ gỗ xẻ được kịp thời.
2. Việc cung cấp nguyên liệu gỗ tròn và tiêu thụ gỗ xẻ cho các cơ sở cưa xẻ gỗ cỡ nhỏ tại lâm trường được thực hiện như sau:
Các lâm trường căn cứ chỉ tiêu kế hoạch để giao gỗ tròn cỡ nhỏ cho cơ sở cưa xẻ trực thuộc, cơ sở cưa xẻ này là một khâu trong dây chuyền sản xuất của lâm trường. Công ty vật tư lâm sản ký hợp đồng tiêu thụ với công ty lâm nghiệp, ty lâm nghiệp hoặc lâm trường. Trong hợp đồng tiêu thụ phải định rõ số lượng, quy cách cụ thể cho từng loại mặt hàng, cách đóng gói giao nhận hàng, và thanh toán theo giá bán buôn công nghiệp gỗ xẻ tại lâm trường đã được xét duyệt.
3. Công ty vật tư lâm sản (hoặc xí nghiệp vật tư lâm sản) giao cho cơ sở cưa xẻ của hợp tác xã gia công cưa xẻ theo phương thức như sau: cung cấp nguyên liệu gỗ tròn, giao định mức tỷ lệ thành khí gỗ xẻ theo các kích cỡ gỗ như đã quy định tại quyết định số 101-LN/QĐ ngày 04-02-1971 và chỉ thị số 11 ngày 18-07-1974 của Tổng cục lâm nghiệp, thu hồi thành phẩm và dư phế phẩm, trả tiền gia công.
4. Đối với các xí nghiệp phải chuyển giao cho ngành lâm nghiệp quản lý thống nhất như đã quy định trong điểm 1 chỉ thị số 114-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong khi chờ chuyển giao thì việc cung cấp nguyên liệu gỗ tròn và tiêu thụ gỗ xẻ thực hiện như sau: công ty vật tư lâm sản (hoặc xí nghiệp vật tư lâm sản) căn cứ nhu cầu gỗ xẻ, khả năng gỗ tròn và xét năng lực của xí nghiệ (không lệ thuộc và công suất thiết bị cưa xẻ) mà ký hợp đồng hai chiều để bán nguyên liệu gỗ tròn cho xí nghiệp và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm gỗ xẻ của xí nghiệp để phân phối theo kế hoạch Nhà nước. Việc ký hợp đồng hai chiều tiến hành từng quý. Nếu xí nghiệp có tận dụng phế liệu, phế phẩm để sản xuất đồ mộc thì phải bán đồ mộc tận dụng cho công ty vật tư lâm sản hay cơ quan thương nghiệp.
Chấm dứt hình thức phân phối gỗ tròn cho cơ quan có xí nghiệp cưa xẻ để tùy tiện sử dụng gỗ xẻ.
5. Đối với các xí nghiệp cưa xẻ gỗ thuộc diện chờ chuyển giao cho ngành lâm nghiệp và các cơ sở cưa xẻ của hợp tác xã thì công ty vật tư lâm sản (hoặc xí nghiệp vật tư lâm sản) phải cử cán bộ theo dõi kiểm tra liên tục từ việc cung cấp gỗ tròn đền việc tiêu thụ gỗ xẻ. Sau mỗi quý hoặc mỗi đợt gia công phải có quyết toán rõ ràng về nguyên liệu gỗ tròn, gỗ xẻ thành phẩm, dư phế phẩm.
6. Tất cả các cơ sở cưa xẻ gỗ của quốc doanh và hợp tác xã đều phải chăm lo cải tiến kỹ thuật và hợp lý hoá tổ chức sản xuất nhằm đạt tỷ lệ thành khí gỗ xẻ theu quy định của Tổng cục Lâm nghiệp; nếu xẻ sai quy cách đã quy định tại quyết định số 358-KHKT/QĐ ngày 23-12-1971 của Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước hoặc xẻ theo quy cách khác biệt không được Tổng cục Lâm nghiệp duyệt, gây lãng phí gỗ sẽ chịu trách nhiệm về sự lãng phí đã gây ra và có thể không được tiếp tụ giao nhiệm vụ cư xẻ gỗ nữa.